Cách chăm sóc mẹ nhiễm HIV sau sinh và và trẻ sơ sinh
Việc chăm sóc bà mẹ có HIV và trẻ sơ sinh được sinh ra từ bà mẹ có HIV cần được thực hiện nhanh chóng, toàn diện ngay sau sinh để hạn chế mức thấp nhất nguy cơ lây nhiễm HIV cho bé, bảo đảm sức khỏe bé và mẹ.
Chăm sóc bà mẹ có HIV ngay sau sinh
Cung cấp thuốc kháng vi-rút
Bà mẹ nhiễm HIV sau sinh cần được chăm sóc như những sản phụ khác, cần đề phòng ra máu sau sinh, nhiễm khuẩn, lây nhiễm cho nhân viên y tế và cho cộng đồng. Đối với những phụ nữ được xác định là chưa cần điều trị hoặc chỉ mới được chẩn đoán nhiễm HIV khi xét nghiệm sàng lọc trước sinh, sẽ được sử dụng phác đồ phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con độc lập trong vòng 1 tuần sau đó ngừng thuốc.
Các mẹ sẽ được giới thiệu đến các cơ sở điều trị HIV/AIDS để được tiếp tục theo dõi sức khỏe, tái khám theo định kỳ. Khi được xác định là nhiễm HIV, các mẹ sẽ được điều trị theo phác đồ phù hợp. Những người mẹ xét nghiệm sàng lọc trước khi sinh là dương tính HIV nhưng những xét nghiệm chẩn đoán xác định tiếp theo cho kết quả là không nhiễm thì sẽ ngưng ngay mọi can thiệp dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con.
Với những người mẹ đã điều trị HIV từ trước khi mang thai hoặc đã điều trị trong quá trình mang thai thì cần tiếp tục điều trị theo phác đồ được lựa chọn. Sau sinh, các mẹ cần quay lại cơ sở điều trị HIV/AIDS để tái khám, theo dõi tình trạng sức khỏe.
Xét nghiệm máu để chẩn đoán HIV cho trẻ
Tư vấn cho bà mẹ có HIV phương pháp tránh thai ngoài ý muốn
Bà mẹ có HIV sẽ được tư vấn để phòng tránh việc có thai ngoài ý muốn. Sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục là biện pháp tránh thai phù hợp nhất. Bao cao su có tác dụng kép vừa giúp tránh thai vừa giúp ngăn ngừa lây truyền HIV qua đường quan hệ tình dục.
Đây là biện pháp tránh thai tốt nhất đối với phụ nữ nhiễm HIV dù người chồng có nhiễm HIV hay chưa nhiễm HIV. Một số biện pháp tránh thai khác như đặt vòng tránh thai, sử dụng thuốc uống tránh thai, tiêm tránh thai,… có thể giúp tránh thai nhưng không tránh được lây truyền HIV và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác.
Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất đối với trẻ, không những cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển, sữa mẹ với nguồn kháng thể dồi dào còn giúp bảo vệ trẻ khỏi mắc nhiều bệnh tật trong những năm tháng đầu đời.
Video đang HOT
Tuy nhiên, nếu bà mẹ có HIV, vi-rút HIV sẽ có trong sữa và có thể lây bệnh cho trẻ. Những người mẹ có HIV cho con bú càng dài ngày thì nguy cơ trẻ nhiễm HIV càng cao. Nguy cơ nhiễm HIV ở trẻ cao nhất khi trẻ vừa được bú mẹ vừa được nuôi dưỡng bằng thức ăn khác.
Các tổ chức quốc tế của Liên hợp quốc như WHO, UNICEF, UNFPA, UNAIDS đã thống nhất đưa ra 2 phương thức nuôi con ở các bà mẹ có HIV như sau:
- Nuôi con bằng sữa công thức khi gia đình có đủ điều kiện kinh tế để duy trì việc nuôi con bằng sữa công thức, nguồn sữa lựa chọn đảm bảo chất lượng, an toàn, có sẵn trên thị trường. Các điều kiện về nguồn nước sạch, dụng cụ pha chế, vệ sinh trong quá trình pha chế được đảm bảo.
- Nếu không đáp ứng được các điều kiện trên, các bà mẹ có HIV có thể lựa chọn nuôi con bằng sữa mẹ. Cần cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong những tháng đầu, ngừng càng sớm càng tốt ngay khi mẹ có điều kiện cho trẻ dùng thực phẩm bổ sung, muộn nhất là khi 6 tháng trẻ phải được ngưng sữa mẹ.
Tùy theo điều kiện của mình, mẹ nhiễm HIV chỉ được chọn một trong hai cách nuôi trẻ như trên. Khi vừa dùng sữa mẹ vừa dùng sữa công thức trẻ sẽ có nguy cơ cao bị tiêu chảy, niêm mạc ruột trẻ bị tổn thương, vi-rút HIV sẽ xâm nhập cơ thể trẻ dễ dàng hơn.
Do đó, các mẹ tuyệt đối không được vừa cho trẻ bú mẹ, vừa cho trẻ dùng sữa công thức hoặc dùng các thức ăn bổ sung khác. Khi nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ, nếu mẹ và bé có các nhiễm trùng da và miệng thì cần điều trị hoàn toàn mới cho bú. Mẹ nhiễm HIV nên xử lý sữa bằng cách, vắt sữa ra đun sôi 100 độ để diệt vi-rút HIV, ngâm vào nước lạnh để sữa giảm đến nhiệt độ thích hợp sau đó cho trẻ bú.
Việc chẩn đoán HIV sớm giúp việc lựa chọn phương pháp nuôi dưỡng trẻ hiệu quả hơn
Chăm sóc trẻ sơ sinh HIV
Chăm sóc trẻ sinh ra từ bà mẹ có HIV ngay sau sinh như sau:
- Khi đầu trẻ ra ngoài, cần nhanh chóng lau nhẹ nhàng mặt trẻ bằng khăn mềm có tẩm huyết thanh đẳng trương ấm. Khi trẻ đã sổ, lau khô toàn thân trẻ bằng khăn mềm.
- Chờ dây rốn ngừng đập hẳn rối mới kẹp dây rốn, không vuốt dây rốn về phía trẻ. Chỉ hút nhớt khi cần thiết, động tác hút nhớt phải nhẹ nhàng để tránh gây sang chấn cho trẻ. Tắm cho trẻ càng sớm càng tốt.
- Cho trẻ sử dụng thuốc kháng vi-rút để phòng lây truyền càng sớm càng tốt trong 72 giờ đầu sau sinh.
Các biện pháp chăm sóc tiếp theo được thực hiện như sau:
Chăm sóc trẻ chưa xác định được có nhiễm HIV hay không
Các trẻ được sinh ra bởi bà mẹ có HIV cần được xét nghiệm chẩn đoán sớm để khẳng định hoặc loại trừ nhiễm HIV. Việc chẩn đoán sớm giúp việc lựa chọn phương pháp nuôi dưỡng trẻ hiệu quả hơn. Việc chẩn đoán sớm còn giúp nhân viên y tế phân biệt trẻ nhiễm HIV và bị bệnh AIDS với các bệnh lý khác như lao, nhiễm trùng, dinh dưỡng ở trẻ không nhiễm HIV.
Kết quả chẩn đoán sẽ định hướng việc điều trị, dùng kháng sinh dự phòng là liệu trình tiêm chủng cho trẻ. Những trẻ có kết quả xét nghiệm âm tính sẽ không cần điều trị dự phòng bằng kháng sinh, do đó hạn chế nguy cơ kháng thuốc và chi phí không cần thiết, trẻ cũng không cần theo dõi tại phòng khám điều trị ngoại trú HIV.
Chưa tính đến trẻ có nhiễm HIV hay không, những trẻ sinh ra bởi bà mẹ có HIV thường đã có sức khỏe yếu, nguy cơ bệnh tật và tử vong cao gấp nhiều lần trẻ sinh ra bởi những người mẹ không bị nhiễm. Do đó, những trẻ em có mẹ nhiễm HIV cần được theo dõi thường xuyên, liên tục sự phát triển, phát hiện sớm và điều trị kịp thời các bệnh nhiễm trùng. Trẻ cần bổ sung vitamin A theo định kỳ để giảm tỷ lệ tử vong và bệnh tật. Người mẹ cần được tư vấn và hỗ trợ trong nuôi dưỡng trẻ, đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng của trẻ được đáp ứng đầy đủ.
Bệnh viêm phổi do nấm là một bệnh đường hô hấp nặng, thường gặp ở trẻ em nhiễm HIV và bệnh thường xuất hiện trước khi có kết quả chẩn đoán trẻ có nhiễm HIV. Do đó, tất cả trẻ từ tuần 4-6 sau sinh sẽ được điều trị dự phòng bằng kháng sinh Cotrimoxazol (Trimethoprim-Sulfamethoxazol) cho đến khi có kết quả xét nghiệm. Tùy theo kết quả trẻ có nhiễm HIV hay không mà trẻ sẽ dừng thuốc hoặc tiếp tục điều trị.
Ngoài ra, trẻ còn cần được tiêm chủng đầy đủ các loại vắc xin để tạo khả năng phòng bệnh chủ động với các vi khuẩn, vi-rút đã được tiêm phòng. Dự phòng, điều trị lao và sốt rét.
- Cần đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ vì nhu cầu năng lượng ở trẻ nhiễm HIV cao hơn trẻ không nhiễm. Thông thường nhu cầu năng lượng trẻ nhiễm HIV cao hơn 10% so với bình thường, nhưng nếu trẻ bị giảm cân thì nhu cầu năng lượng cần tăng lên 50-100%.
- Ở những trẻ nhiễm HIV, việc bú mẹ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của trẻ. Ngoài ra, trẻ cần được cung cấp vitamin A đúng cách để giảm nguy cơ mắc các bệnh tiêu chảy, viêm phổi,…
- Dự phòng viêm phổi do nấm là một phần quan trọng của chăm sóc trẻ sơ sinh hiv. Trẻ nhiễm HIV sẽ được điều trị dự phòng Cotrimoxazol trong 12 tháng đầu đời. Ngoài ra, Cotrimoxazol cũng được khuyến cáo khi trẻ có triệu chứng AIDS, suy giảm miễn dịch nặng hoặc vừa mắc một đợt viêm phổi.
Điều trị dự phòng để loại trừ nguy cơ nhiễm HIV từ mẹ sang con
Nếu không được điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con, cứ 100 bà mẹ nhiễm HIV mang thai sẽ có 35 trẻ sinh ra lây truyền HIV từ mẹ. Nhưng nếu được điều trị dự phòng chỉ có khoảng 5 trẻ sinh ra bị lây truyền căn bệnh này từ mẹ.
Bé V.A (2 tuổi, Lào Cai) đến bệnh viện nhi trung ương khám trong tình trạng sức khỏe vô cùng nguy hiểm đến tính mạng, sau khi xét nghiệm bé V được phát hiện nhiễm HIV. Được biết mẹ của bé cũng đã qua đời sau khi sinh bé được vài tháng. Các bác sỹ cho rằng bé V bị lây nhiễm HIV từ mẹ. Do gia đình bé ở vùng sâu vùng xa lại không có điều kiện đến các bệnh viện có đủ điều kiện khám chữa bệnh và xét nghiệm nên bé V bị nhiễm HIV gần 2 năm mà không ai biết.
Không chỉ có bé V.A, bé N. ở Hà Giang cũng bị nhiễm HIV do mẹ truyền sang. Khi được phát hiện nhiễm HIV, bé N. đã được 6 tháng tuổi và cũng trong tình trạng viêm phổi nặng. Thậm chí, khi được thông báo bị nhiễm HIV, mẹ bé N. vẫn dửng dưng như không vì nghĩ rằng căn bệnh này cũng giống như những bệnh đơn thuần khác, cứ uống thuốc là khỏi.
Câu chuyện buồn đó chỉ là một trong số khá nhiều câu chuyện trẻ lây nhiễm HIV từ mẹ đang ẩn quanh đâu đó trong xã hội bởi những trường hợp con lây truyền HIV từ người mẹ không còn là chuyện hiếm gặp.
Có một sự thật rằng, nhiều phụ nữ mang thai không đi xét nghiệm trước thai kỳ. Phòng, chống HIV là một công tác đòi hỏi thực tế, thực địa tại các vùng miền. Nhờ sự phát triển của công tác điều trị, phòng, chống mà tỷ lệ lây truyền từ mẹ sang con đã giảm đáng kể.
Ngay cả khi bố mẹ đều nhiễm HIV vẫn có thể sinh ra những đứa con hoàn toàn khỏe mạnh và không bị nhiễm HIV nếu mẹ sớm được dùng thuốc kháng vi rút (ARV) và tuân thủ việc nuôi con theo hướng dẫn của cán bộ y tế. Tuy nhiên ở nhiều vùng miền, tỷ lệ phụ nữ mang thai đi xét nghiệm trước và sau thai kỳ chỉ chiếm số lượng ít.
Mục tiêu của toàn xã hội là đến năm 2020 sẽ giảm tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con xuống dưới 2%. Tuy nhiên, để đạt mục tiêu này, cần phải có sự tham gia tích cực hơn nữa của các cơ sở y tế, đặc biệt là cơ sở y tế tại các phường/xã trong công tác dự phòng lây truyền mẹ con như tăng cường độ bao phủ xét nghiệm HIV cho phụ nữ mang thai, tăng cường xét nghiệm trong thời kỳ mang thai,...
Ngay cả khi bố mẹ đều nhiễm HIV vẫn có thể sinh ra những đứa con hoàn toàn khỏe mạnh và không bị nhiễm HIV nếu mẹ sớm được dùng thuốc kháng vi rút (ARV) và tuân thủ việc nuôi con theo hướng dẫn của cán bộ y tế
Bên cạnh đó, khi việc thực hiện chuyển tiếp giữa hai hệ thống chăm sóc sức khỏe sinh sản và phòng chống HIV/AIDS, cần theo dõi chuyển tiếp phụ nữ mang thai HIV dương tính sang cơ sở chăm sóc điều trị để được theo dõi điều trị ARV ngay; chuyển tiếp mẹ và trẻ sau sinh sang cơ sở HIV/AIDS để được theo dõi điều trị cho đến khi trẻ khẳng định tình trạng nhiễm HIV.
Vì vậy, việc nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là phụ nữ mang thai, vợ của những người nhiễm HIV trong độ tuổi sinh đẻ, phụ nữ sống ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc ít người về lợi ích của xét nghiệm HIV sớm và điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con sớm. Các đơn vị y tế và tổ chức xã hội cần tăng cường cung cấp dịch vụ dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con (xét nghiệm phát hiện nhiễm HIV cho phụ nữ mang thai, cung cấp thuốc ARV cho phụ nữ nhiễm HIV bao gồm phụ nữ nhiễm HIV mang thai), đẩy mạnh các can thiệp, chất lượng dịch vụ dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con.
Nếu phụ nữ mang thai phát hiện nhiễm HIV ở ba tháng đầu của thai kỳ được uống thuốc sớm và tuân thủ điều trị theo nguyên tắc 5Đ (uống thuốc đều, đúng giờ, điều nhiều, đúng chỉ định, đúng cách), xét nghiệm máu từ 3 đến 6 tháng/lần, tải lượng virus dưới 200 bản sao, thì nguy cơ lây sang con sẽ thấp. Việc xét nghiệm HIV ngay khi biết mình mang thai trong quý đầu của thai kỳ hoặc ngay lần khám thai đầu tiên điều trị thuốc thì tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con sẽ giảm đáng kể, với tỷ lệ chỉ còn 2 - 6%.
Việt Nam phát hiện trường hợp trẻ có HIV từ năm 1994 và thực hiện mở rộng chăm sóc điều trị HIV/AIDS cho trẻ từ năm 2004. Trong công tác chăm sóc, điều trị HIV/AIDS cho trẻ tại cộng đồng và gia đình, Việt Nam luôn được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đánh giá cao. Nhưng đến nay, vẫn còn những khó khăn cần khắc phục để bảo đảm cho trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS có cuộc sống bình thường như bao trẻ em khác.
Ăn lẩu cay 3 lần/tuần, người đàn ông đi khám trong tình trạng bùng phát mụn trên da đầu Ngay khi chạm tay vào đỉnh đầu, ông Nam cảm nhận đau đớn lan tỏa do cso mụn trên da đầu nên đã đến phòng khám điều trị. Bác sĩ Hoàng Tĩnh Văn, khoa da liễu, công tác tại phòng khám Aphrodite medical clinic, chia sẻ về trường hợp ông Nam (40 tuổi) sống tại Đài Loan. Dạo gần đây khi thời tiết...