Các phiên bản xe tải ‘ZIL ba cầu’ huyền thoại của Liên Xô
Dòng xe tải đa năng nổi tiếng nhất của Nga-Xô là ZIL “ba cầu”, được phát triển nhiều phiên bản khác nhau tại Nhà máy chế tạo ô tô mang tên Ivan Likhachev.
ZIL là tên viết tắt của “Nhà máy mang tên Likhachev”, xí nghiệp chuyên chế tạo xe cơ giới lâu đời của Liên Xô trước đây và Liên bang Nga ngày nay. Nhà máy nổi tiếng này được đặt theo tên họ của nhà thiết kế hàng đầu của ngành công nghiệp ô tô Liên Xô Ivan Alekseevich Likhachev (1896-1956).
Ivan Likhachev là kiến trúc sư trưởng của dòng xe tải ZIL ba cầu huyền thoại.
Năm 1926, Ivan Likhachev được bổ nhiệm làm giám đốc Nhà máy Ô tô Matxcova (tiền thân của ZIL sau này). Sau thời gian ngắn làm việc, Ivan Likhachev biến ZIL trở thành một “gã khổng lồ” trong ngành chế tạo ô tô ở Liên Xô lúc bấy giờ.
Từ đầu 1940 đến những năm 1950, Ivan Likhachev đứng đầu nhà máy chế tạo ô tô ZIL. Nhà máy trở thành doanh nghiệp hàng đầu, có thiết bị công nghệ mới nhất Xô Viết. Công suất chế tạo hàng năm đạt mức 150 nghìn xe tải.
ZIL-150 là nguyên thể đầu tiên của các dòng xe tải “Ngựa thồ” huyền thoại của Liên Xô.
ZIL-150 được xem là phiên bản sơ khai của dòng xe vận tải nổi tiếng của quân đội Liên Xô. Năm 1944, nguyên mẫu chiếc ZIL-150 (lúc đó gọi là ZIS-150) đầu tiên được chế tạo ra, có kiểu dáng giống với dòng Harvester K-7 của quân đội Mỹ. Tuy nhiên, những hạn chế của động cơ và tính năng sử dụng, khiến cho ZIL-150 không được sản xuất hàng loạt. ZIL-150 sau đó được phát triển theo nhiều biến thể mới như ZIS-5, KAZ-150, ZIS-155.
Năm 1957, biến thể hoàn thiện nhất của dòng xe tải trên là ZIL-164 được hoàn thành. Bằng việc nâng cấp các bộ phận và cụm hệ thống đơn lẻ của ZIL-150, các xe ZIL-164 đã được sản xuất nhiều từ tháng 10/1957 đến tháng 12/1964.
Xe tải ZIL-164 và biến thể ZIL-164A phục vụ nhiều năm trong lực lượng quân sự Liên Xô. Trên cơ sở thiết kế chung của dòng xe này, nhà máy ZIL đã chế tạo các xe tải lớn, xe cứu thương, cần cẩu, tàu chở dầu và nhiều phương tiện đặc biệt khác.
Xe tải ZIL-164 và biến thể ZIL-164A phục vụ nhiều năm trong lực lượng quân sự Liên Xô.
Một trong những dòng xe tải sử dụng phổ biến nhất trong ngành công nghiệp ô tô Liên Xô là ZIL-130. Ước tính 3,4 triệu chiếc được sản xuất, sử dụng rộng rãi trong quân đội và dân sự và xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
ZIL-130 được trang bị động cơ xăng V8, với hộp số 5 cấp. Xe đạt tốc độ tối đa từ 80-100km/h và có khả năng di chuyển trong khoảng cách xa.
Video đang HOT
ZIL-130 huyền thoại được sử dụng nhiều ở Liên Xô và ở cả Việt Nam.
Bên cạnh đó, trong các dòng xe tải ZIL huyền thoại sau này, xe ZIL-131 cũng là mẫu ô tô tải được sử dụng rất nhiều tại Liên Xô trong nhiều thập kỷ, với khoảng 1 triệu chiếc được chế tạo. Thiết kế của “Ngựa thồ” huyền thoại này được phát triển dựa trên đặc tính của xe tải REO M34 thuộc biên chế quân đội Mỹ giữa thế kỷ XX.
Liên Xô sau đó phát triển nguyên mẫu đầu tiên của ZIL-131, có động cơ 6 xi-lanh hình chữ V, với 135 mã lực. Chiếc xe được làm bằng thép nguyên bản, có khung thấp và vành đĩa hình nón.
ZIL-131 có 2 biến thể dùng kéo pháo và dùng để vận chuyển hàng hóa, binh lính.
Mô hình của chiếc xe ZIL-131 lần đầu xuất hiện vào cuối năm 1956, trang bị động cơ 6 thì. Có hai phiên bản chính của dòng xe này là ZIL-131 dùng cho pháo binh và ZIL-131 dùng cho vận chuyển hàng hóa, binh lính.
Ban đầu ZIL-131 không nằm trong kế hoạch sử dụng vận chuyển mặt đất, xe tải này được dùng chủ yếu cho nhiệm vụ kéo pháo. Tuy nhiên, những hạn chế của dòng ZIL-157, buộc Bộ Quốc phòng Liên Xô thay đổi, biến ZIL-131 trở thành xe tải đa năng.
Năm 1960, trong các mẫu xe cơ giới ba cầu của Liên Xô, ZIL-131 được đánh giá có ưu thế vượt trội nhất. Dòng xe này có tải trọng lớn, tiết kiệm nhiên liệu, động cơ mạnh mẽ. Những hạn chế về khả năng cơ động đường dài của ZIL-131 đã được khắc phục sau đó.
Sau khi khắc phục những điểm yếu và hiện đại hóa hệ thống điện, ZIL-131 là sự lựa chọn hàng đầu và dài hạn cho lực lượng quân sự Liên Xô trong nhiều thập kỷ sau đó. ZIL-131 không còn là một xe tải chuyên dùng để kéo pháo, mà là một chiếc xe đa năng.
Phiên bản xe tải ZIL-131A của quân đội Liên Xô.
Trước khi ZIL-131 ra đời, các dòng xe như ZIL-151 và ZIL-157 được chế tạo và sử dụng khá phổ biến. Tuy nhiên, hai xe cơ giới quân sự này có động cơ khá yếu và tải trọng thấp. Đặc biệt là khả năng bám đường rất kém, không phù hợp với vai trò xe kéo pháo chiến trường.
Sau đó, vào những năm 50 của thế kỷ XX, các đơn vị pháo binh Xô Viết bắt đầu phát triển ZIL-128. Dòng xe tải này không phải là phiên bản nối tiếp của ZIL-151, mang những đặc điểm tương đồng của M34 của quân đội Mỹ.
Phiên bản xe tải hạng nặng ZIL-128.
ZIL-128 có động cơ chuyển động, hộp số mới, đồng thời hệ thống lốp và nhiều chi tiết hoàn toàn khác biệt so với các dòng xe tải trước đây. Khung xe được hạ xuống để giạm trọng tâm và dễ dàng bốc dỡ hàng hóa, đạn dược.
Ngoài ra, Bộ Quốc phòng Liên Xô lúc này còn phát triển một dòng xe cơ giới khác là ZIL-165, nguyên bản đầu tiên của ZIL-131. Nhược điểm chính của ZIL-165 có buồng lái nhỏ và động cơ 6 xi-lanh khá yếu. Do đó, thiết kế này bị loại bỏ vào năm 1957.
PHONG VŨ
Theo vtc.vn
Vì sao hơn 1 triệu người Liên Xô chiến đấu cho Đức trong Thế chiến II?
Không phải là chi tiết đáng tự hào của lịch sử Nga, nhưng sự thật là ở Liên Xô có một số người hợp tác với Đức Quốc xã.
Ngày 12/7/1942, Thế chiến II đang hoành hành ác liệt ở Liên Xô; các vùng lãnh thổ rộng lớn ở phía Tây nằm dưới sự kiểm soát của Đức và nỗ lực của Liên Xô nhằm giải phóng các khu vực này khỏi quân Đức chưa thành công. Quân đoàn xung kích số 2 của Mặt trận Volkhov - một phần lực lượng chi viện thành phố Leningrad đang bị phong tỏa, bị quân phát xít bao vây và bị đánh bại thảm khốc.
Andrei Vlasov đứng giữa, tháng 11/1944. Nguồn: rbth.com
Hai tuần sau, một thôn trưởng địa phương báo với người Đức anh ta đã bắt được một người đàn ông đáng ngờ, có thể là một du kích, và đang giữ anh ta trong một nhà kho. Khi những người lính Đức với súng máy tiến đến gần chuồng ngựa, một người đàn ông cao lớn đeo kính bước ra và nói bằng tiếng Đức gượng gạo: "Đừng bắn. Tôi là tướng Vlasov". Đây là một con cá khá lớn - Andrei Vlasov - Tư lệnh Quân đoàn xung kích số 2, trước đó đã chiến đấu anh dũng để bảo vệ Kiev và Moscow.
Tuy nhiên, tất cả vinh quang trên bị lu mờ và ô nhục là Vlasov đồng ý phục vụ Đức và lãnh đạo cái gọi là Quân đội Giải phóng Nga (RLA), bao gồm tù binh Liên Xô, chống lại Tổ Quốc của mình. Thậm chí ngày nay, tên Vlasov ám chỉ sự phản bội. Y trở thành một biểu tượng của tráo trở, và những người phạm tội phản quốc trong Thế chiến II, làm việc cho Đức thường được gọi là Vlasovtsy (người phe Vlasov trong tiếng Nga). Trên thực tế, có nhiều công dân Liên Xô và người dân tộc thiểu số Nga, không chỉ các thành viên của RLA, đã hợp tác với Đức Quốc xã.
Vấn đề hợp tác
Sự hợp tác của công dân Liên Xô với quân phát xít không phải là một chủ đề để thảo luận ở Nga. Có lẽ đây là một phần của di sản Xô Viết của Nga: Từ gần 50 năm nay, sự thật về vấn đề hợp tác đó đã không được nhắc đến ở Nga, theo nhà sử học Sergei Drobyazko - người đã có phân tích kỹ lưỡng về chủ đề này trong tác phẩm "Dưới ngọn cờ của kẻ thù: Chống Liên Xô trong quân đội Đức 1941-1945" của mình.
Người Nga phục vụ trong quân đội Đức, Mặt trận phía Đông, 1941-1945. Nguồn: rbth.com
Thực tế một số công dân Liên Xô muốn đứng về phía Hitler chống Liên Xô là quá nhạy cảm để thảo luận trong thời kỳ Xô Viết. Và đây cũng không phải là một nhóm nhỏ của những kẻ lập dị. Tổng cộng, số lượng công dân Liên Xô và người di cư Nga phục vụ trong hàng ngũ quân đội Đức, SS, cảnh sát và dân quân thân Đức là gần 1,2 triệu người (trong đó có tới 700.000 người Slavơ, 300.000 người Baltic và 200.000 người Thổ Nhĩ Kỳ, người Kavkaz và từ các dân tộc thiểu số), Drobyazko cho biết.
Có hai điều quan trọng cần nhớ ở đây. Đầu tiên, điều này không có nghĩa là tất cả 1,2 triệu người này thực sự đã chiến đấu trực tiếp chống lại Liên Xô. Phần lớn trong số họ được sử dụng làm cảnh sát, tài xế,... và/hoặc không ở Mặt trận phía Đông. Thứ hai, con số này khá thấp, do theo điều tra dân số năm 1939, có 170 triệu người sống ở Liên Xô trước chiến tranh. Nói cách khác, đại đa số người dân Liên Xô đã chiến đấu anh dũng chống lại Đức quốc xã và vẫn trung thành với đất nước của mình. Tuy vậy, vẫn đáng để đặt câu hỏi: tại sao nhiều người Nga lại sát cánh với Đức?
Lý do phản quốc
Trước chiến tranh, Liên Xô giống một khối đá đỏ khổng lồ rắn chắc, đặc biệt là nhìn từ bên ngoài, nhưng thực tế, nó ẩn chứa nhiều vấn đề lớn. Không phải tất cả mọi người hài lòng với sự lãnh đạo của những người Bolshevik, đặc biệt là trong bối cảnh những cuộc đàn áp tàn bạo diễn ra dưới thời Joseph Stalin. Hơn nữa, cuộc chiến bắt đầu thảm khốc, mùa hè và mùa thu năm 1941, Đức Quốc xã đã chiếm đóng các vùng lãnh thổ rộng lớn và ngấp nghé tiến về Moscow, nhiều người đặt câu hỏi liệu việc chống trả có khả thi không.
Những tình nguyện của Quân đội Giải phóng Nga, 1944. Nguồn: rbth.com
Thất bại thảm khốc Hồng quân phải chịu trong mùa hè-thu năm 1941 khiến người dân hoài nghi về khả năng lãnh đạo, sự bất lực của chính quyền Xô Viết trong việc kiểm soát tình hình và thậm chí là phản quốc. Hơn nữa, cuộc chiến đã gợi mở những mâu thuẫn mà xã hội Liên Xô đang phải chịu đựng, Drobyazko cho biết. Tuy nhiên, không phải tất cả những người phải chịu đựng chế độ Stalin nhớ đến ông trong thời khắc đất nước lâm nguy.
Bị dồn vào chân tường và chống Bolshevik
Oleg Budnitsky - giám đốc Trung tâm quốc tế về lịch sử và xã hội học của Thế chiến II - nhấn mạnh những lựa chọn khó khăn mà nhiều cộng tác viên phải đối mặt: phần lớn người Xô Viết hợp tác với Đức là vì hoàn cảnh..., trong tình thế nguy kịch, một lựa chọn mà họ cho là ít xấu xa hơn hoặc đơn giản là có thể cứu mạng họ. Kể từ khi chiến tranh bắt đầu, tù binh Xô Viết bị chính phủ Liên Xô đối xử với sự ngờ vực và bị coi là những kẻ phản bội tiềm năng. Điều này khuyến khích một số người trong số họ thực sự trở thành kẻ phản bội.
Một đơn vị Quân đội Giải phóng Nga. Nguồn: rbth.com
Đồng thời, Budnitsky lưu ý, có một phần trăm những người đã chống đối sâu sắc với những người Bolshevik và chiến đấu chống lại Liên Xô vì lý do ý thức hệ. Quân Bạch vệ phải rời khỏi Nga sau khi Hồng quân giành chiến thắng (mặc dù chỉ một phần nhỏ trong số này đứng về phía Đức quốc xã) và người dân từ các vùng lãnh thổ mà Liên Xô đã sáp nhập trước Thế chiến II - các quốc gia Baltic độc lập trước đây và các khu vực của Tây Ukraine và Tây Belarus từng là một phần của Ba Lan.
Các đồng minh không mong muốn
Nếu giới chức Đức tận dụng tối đa những người hăng hái chiến đấu chống Liên Xô, cơ hội chiến thắng của họ sẽ gia tăng đáng kể. Một quan chức Đức thuộc Bộ phụ trách các vùng lãnh thổ chiếm đóng, cho biết vào năm 1942, cuộc kháng chiến của các binh sĩ Hồng quân sẽ bị phá vỡ khi họ nhận ra Đức sẽ mang lại cho họ một cuộc sống tốt hơn so với Liên Xô. Ý tưởng đánh vào chủ đề Nga Cộng sản đã được một số quan chức phát xít khởi xướng. May mắn thay cho Moscow, Hitler đã loại bỏ ý tưởng này, và y không muốn nghe bất cứ điều gì về nhà nước Nga Cộng sản. Học thuyết của Hitler yêu cầu phá hủy không chỉ Liên Xô mà còn cả khái niệm về nhà nước Nga, thâu tóm tất cả.
Điều ngu ngốc nhất làm tại các lãnh thổ phương Đông bị chiếm đóng là cung cấp vũ khí cho các quốc gia bị chiếm đóng, Hitler nhấn mạnh. Đó là lý do tại sao, cho đến khi Đức quốc xã trở nên tuyệt vọng vào năm 1944, người Đức chỉ sử dụng những người Liên Xô thân Đức, bao gồm Vlasov và RLA, như một công cụ tuyên truyền. Họ ném bom Hồng quân với tờ rơi kêu gọi nổi dậy nhưng từ chối trao cho Vlasov bất kỳ lực lượng thực sự nào để chỉ huy. Một đội hình khác của Nga trong Đức Quốc xã, Quân đoàn bảo vệ Nga, đã được sử dụng ở Nam Tư để chiến đấu chống lại du kích địa phương vào năm 1942-1944, nhưng Hitler đã không đủ tin tưởng người Nga để dùng họ chiến đấu chống lại chính Liên Xô.
Kết thúc tuyệt vời
Tất cả những điều này chỉ thay đổi vào tháng 9/1944, khi Hồng quân đang áp sát nước Đức. Vào thời điểm đó, Đức Quốc xã đã đủ tuyệt vọng để sử dụng bất cứ thứ gì có thể giữ cho đế chế sắp sụp đổ của họ còn nguyên vẹn. Chính Heinrich Himmler đã gặp Andrei Vlasov và xử phạt việc thành lập Ủy ban Giải phóng Nhân dân Nga và Lực lượng Quân sự nằm dưới sự chỉ huy của Vlasov, bao gồm khoảng 50.000 người.
Những người này đã chiến đấu chống lại Hồng quân chỉ trong ba tháng, từ tháng 2 đến tháng 4/1945, nhưng đã không thành công. Đức Quốc xã đã bị suy yếu vào thời điểm này. Sau thất bại của Đức, Vlasov và tất cả các sỹ quan chỉ huy của y đã bị Liên Xô bắt giữ, nhanh chóng bị xử tử và đi vào lãng quên. Không thể bào chữa cho những người giúp đỡ Đức Quốc xã, bất kể động cơ của họ là gì, Oleg Budnitsky nói. Theo ông này, chế độ Bolshevik là khủng khiếp và vô nhân đạo, nhưng chủ nghĩa phát xít, mà những người đó phục vụ, là xấu xa tuyệt đối./.
Theo CTV Lê Ngọc/VOV.VN (biên dịch)
RBTH
Lãnh đạo Nga và Đức thảo luận về việc vận chuyển khí đốt qua Ukraine Ông Putin và bà Merkel đã có cuộc điện đàm bàn về chủ đề Ukraine và tình hình ở Trung Đông. Tổng thống Nga Putin và bà Merkel đã có cuộc điện đàm bàn về chủ đề Ukraine Các nhà lãnh đạo của hai quốc gia đã thảo luận về vấn đề liên quan đến Ukraine trong bối cảnh ký kết "công thức...