Ca t.ử v.ong vì COVID-19 ở Mỹ cao trên mức bình thường so với các nước giàu
Trong thời dịch COVID-19, Mỹ có nhiều ca t.ử v.ong trên mức bình thường so với các quốc gia giàu có khác, theo dữ liệu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công bố tháng 5.
Tỷ lệ t.ử v.ong do COVID-19 ở Mỹ cao hơn so với các nước kém phát triển hơn. Ảnh: AFP
Tỷ lệ t.ử v.ong ở Mỹ cao hơn 15% so với mức bình thường – con số chỉ kém bốn quốc gia lớn khác trong cùng nhóm thu nhập là Chile, Séc, Ba Lan và Romania.
Trên toàn cầu, nhiều quốc gia thu nhập thấp và đang phát triển phải gánh chịu thiệt hại nặng nề hơn, song tỷ lệ t.ử v.ong ở Mỹ lại tăng cao hơn so với một số quốc gia nghèo hơn như Argentina và Philippines.
Trong suốt đại dịch, Mỹ và những quốc gia giàu có khác đã được tiếp cận với phần lớn nguồn cung thiết bị y tế quan trọng như vaccine, thuốc kháng virus, khẩu trang và bộ xét nghiệm. Mặc dù hầu hết các nước này có bộ phận dân số già hơn và dễ bị tổn thương hơn, song họ lại được tiếp cận với các chính sách hỗ trợ kinh tế.
Một số quốc gia có tỷ lệ t.ử v.ong gia tăng lớn nhất trong hai năm đầu tiên của đại dịch là những quốc gia thuộc nhóm thu nhập trên mức trung bình: Ecuador, Mexico và Peru. Nhưng nhiều quốc gia có thu nhập thấp nhất – bao gồm hầu hết các quốc gia châu Phi – không được đưa vào biểu đồ vì dữ liệu của họ kém tin cậy hơn.
Một số quốc gia đã phải nỗ lực nhiều hơn những quốc gia khác để thống kê chính xác số ca t.ử v.ong liên quan đến đại dịch. Số liệu của WHO cho thấy số ca t.ử v.ong toàn cầu nhiều gấp đôi số ca được các chính phủ trên toàn thế giới báo cáo.
Ở những nước thu nhập cao nhất, chênh lệch giữa số ca t.ử v.ong do COVID-19 được báo và tỷ lệ t.ử v.ong trên mức bình thường ở mức nhỏ, có lẽ là do số người c.hết tương đối thấp hơn, cũng như có đủ cơ sở hạ tầng để theo dõi.
Video đang HOT
Trên toàn thế giới, khoảng 15 triệu người, tức 13%, đã t.ử v.ong ngoài dự báo trong 2 năm đầu tiên của đại dịch.
Nhân viên y tế chuyển bệnh nhân COVID-19 tới bệnh viện ở London, Anh. Ảnh: AFP/TTXVN
Ước tính mới nhất của WHO là những gì nhiều nhà khoa học cho là thước đo đáng tin cậy nhất về tác động chung của đại dịch cho đến nay. Con số t.ử v.ong vượt mức dự báo cho thấy sự khác biệt giữa số người c.hết trong năm 2020 và năm 2021 và số người sẽ c.hết trong thời gian đó nếu đại dịch không xảy ra. Người t.ử v.ong ngoài mức dự báo là những người c.hết vì virus SARS-CoV-2 nhưng không được xét nghiệm, hoặc vì các bệnh có thể phòng ngừa khác khi hệ thống bệnh viện quá tải vì COVID-19.
Ở các nước như Australia, Trung Quốc và Nhật Bản, số ca t.ử v.ong trong năm 2020 và 2021 do WHO ước tính thực tế lại thấp hơn bình thường. WHO cho biết các nước này có thể chứng kiến tỷ lệ t.ử v.ong do các nguyên nhân khác giảm xuống nhờ kết quả của những biện pháp kiểm soát dịch bệnh.
Vì WHO dựa vào số liệu thống kê về t.ử v.ong và dân số được báo cáo một phần bởi các cơ quan chính phủ, một số dữ liệu có thể không đủ chính xác ở các quốc gia có năng lực theo dõi kém.
Theo trang thống kê worldometers.info, toàn thế giới có hơn 519 triệu ca mắc, trong đó Mỹ, Ấn Độ và Brazil là 3 nước có số ca mắc cao nhất thế giới với tổng số ca mắc tại 3 nước này vào khoảng 158 triệu ca. Tổng số ca t.ử v.ong do COVID-19 tại Mỹ cũng đã vượt 1 triệu ca hồi đầu tuần.
WHO kêu gọi người dân kiên trì với các biện pháp chống dịch trên nhiều mặt trận. Cụ thể là tiếp tục bảo vệ những người dễ bị tổn thương, tiếp tục theo dõi sự lây lan và đột biến của virus, đảm bảo hệ thống y tế sẵn sàng ứng phó với bất cứ tình huống của dịch bệnh và giải quyết những tác động lâu dài của dịch.
COVID-19 xóa mờ hy vọng nâng cao thu nhập của các nước Đông Nam Á
Đại dịch COVID-19 cùng giá cả hàng hóa leo thang và sự bất ổn toàn cầu khiến mục tiêu nâng cao thu nhập người dân của các nước Đông Nam Á trở nên khó đạt được.
Tốc độ tăng trưởng của Indonesia vẫn còn quá chậm để đạt được mục tiêu Tổng thống Joko đặt ra trong năm 2019. Ảnh: AFP
Trong lời tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ lần 2 vào năm 2019, Tổng thống Indonesia Joko Widodo cam kết sẽ nâng thu nhập trung bình của người dân cao gấp 3 vào năm 2050, đưa đất nước sánh ngang với các nền kinh tế có thu nhập cao như Ba Lan và Chile.
Không chỉ có Indonesia, các quốc gia láng giềng như Thái Lan và Malaysia cũng đặt mục tiêu tương tự.
Tháng 10/2019, Thủ tướng Thái Lan Prayut Chan-O-Cha đặt mục tiêu trong năm 2036, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người của Thái Lan đạt ít nhất 12.700 USD, lọt bảng xếp hàng những quốc gia giàu có. Năm ngoái, Malaysia cũng rục rịch triển khai kế hoạch trở thành quốc gia phát triển vào giữa thập kỷ này.
Nhưng khi nói đến những thiệt hại lên nền kinh tế do đại dịch COVID-19, buộc trường học, khu công nghiệp hay lĩnh vực du lịch phải đóng cửa hai năm, những hy vọng phía trên dường như đang dần mờ nhạt.
Giá lương thực và năng lượng tăng cao trong ngắn hạn cũng như chuỗi cung ứng chưa hoạt động đồng nghĩa với hoạt động xuất khẩu và lao động giá rẻ sẽ không đủ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cần thiết trong những năm tới.
"Những tổn hại mà COVID-19 để lại càng bị khoét sâu thêm do chiến tranh và biến đổi khí hậu", nhà kinh tế học Alicia Garcia Herrero trả lời phỏng vấn báo Straits Times trong cuộc thảo luận trực tuyến gần đây do Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế Vĩ mô Asean 3 (AMRO) tổ chức.
AMRO nói rằng các nền kinh tế trong khu vực còn phải chật vật để bù lại những tổn thất do đại dịch gây ra trong bối cảnh thiếu lao động có tay nghề cao và các chính phủ dè xẻn trong chi tiêu.
"Đại dịch càng kéo dài thì những tổn thất càng lan rộng và lâu dài hơn", Tiến sĩ Hoe Ee Khor - nhà kinh tế cấp cao của AMRO - phát biểu.
Tuần trước, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) cho biết mặc dù Indonesia dự báo chứng kiến tốc độ tăng trưởng trở lại như thời kỳ trước đại dịch, ở mức 5% trong năm nay và 5,3% trong năm tới, thì nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á vẫn tăng trưởng quá chậm so với mục tiêu đề ra của Tổng thống Widodo.
Indonesia cần ghi nhận mức tăng trưởng gần 6%/năm từ năm nay đến năm 2040 để đạt mục tiêu. Trên thực tế, tăng trưởng GDP hàng năm của nước này chỉ đạt trung bình 5% trong 4 năm trước 2019.
Tiến sĩ Chatib Basri, cựu Bộ trưởng Tài chính Indonesia, chỉ ra rằng quốc gia này cần phải nỗ lực gấp đôi cho dịch vụ giáo dục và y tế để tăng năng suất.
"Đã hai năm t.rẻ e.m không thể thường xuyên đến trường. Chúng ta không thể đ.ánh giá được chất lượng thị trường lao động. Không chỉ Indonesia mà mọi quốc gia Đông Nam Á đều phải nỗ lực đẩy mạnh", Tiến sĩ Chatib nói.
Theo ADB, tăng trưởng GDP của Malaysia dự kiến sẽ tăng gần gấp đôi so với năm ngoái lên 6% vào năm 2022 trước khi giảm xuống 5,3% vào năm 2023. Trong khi đó, Thái Lan ghi nhận mức tăng trưởng 3% vào năm nay và 4,5% vào năm sau.
Nếu GDP của Malaysia tăng trưởng ổn định ở mức khoảng 6% trong những năm tới, nước này được dự đoán sẽ giành một vị trí trong hàng ngũ các quốc gia có thu nhập cao cùng với Panama và Costa Rica vào năm 2025.
Tuy nhiên, trong bối cảnh giá hầu hết các mặt hàng chủ lực, như dầu ăn và lúa mì, đã tăng gấp đôi kể từ đầu năm 2020, lạm phát tại các nước Đông Nam Á được dự báo sẽ tăng.
Khoon Goh, nhà kinh tế trưởng ANZ có trụ sở tại Singapore, kết luận: "COVID-19 ngăn cản tiến độ đạt được mục tiêu. Không chỉ vậy, với giá cả hàng hóa tăng cao và sự bất ổn toàn cầu, việc đạt được mục tiêu sẽ trở nên khó khăn hơn".