Ca khúc ‘Could You Be Loved’ của Bob Marley: Tình yêu không bao giờ rời bỏ chúng ta
Vào năm 1979, trên chuyến bay tới buổi diễn sẽ là cuối cùng của đời mình, Bob Marley đã sáng tác Could You Be Loved. Dự cảm cái chết gần kề, dường như Marley muốn thâu tóm vào đó, một cách cô đọng nhất, những tâm huyết nhất của thăng trầm cuộc đời.
Tới nay, cụ thể Could You Be Loved viết về điều gì là chuyện không thể biết. Nhưng dù mọi ngã rẽ có thể khác nhau, cái đích cuối cùng vẫn không thay đổi.
Những ngày cuối cùng
Nói một cách chính xác thì Could You Be Loved đã khởi sinh từ London. Khi đó, tay guitar Junior Marvin của nhóm Bob Marley and the Wailers mà Marley là trưởng nhóm đang ngồi gảy chơi và chợt nghĩ ra đoạn riff mở màn. Marley lập tức cảm thấy có gì đặc biệt nên quay sang hỏi: “Cái gì đó?” Marvin thành thật rằng anh chỉ nghịch chơi thôi nhưng Marley bèn hỏi: “Tôi dùng nó được không?”. Sau đó, khi họ tới Brazil cùng Inner Circle, tất cả đã cùng hoàn thiện ca khúc.
Có được đoạn riff đặc biệt – được lặp lại không ngừng theo nhịp của ca khúc – Marley đã mở đầu Could You Be Loved bằng một trong những mở đầu nổi tiếng nhất lịch sử: “Đừng để họ đánh lừa bạn! Hoặc thậm chí thử học!”.
Cái kết của nó cũng vô cùng đặc biệt khi nhóm hát đệm I Three hát lại lời đĩa đơn đầu tiên của Marley, Judge Not, một giai điệu Ska về đạo đức, phát hành năm 1962: “Đường đời đầy sỏi đá và bạn có thể cũng vấp ngã. Vì vậy, trong khi bạn chỉ tay, lại có người khác đang phán xét bạn”. Rất dễ có thể nhận thấy sự tương đồng của câu này với kinh thánh: “Đừng đoán xét ai để mình khỏi bị đoán xét”. Việc Marley lặp lại lời một ca khúc cũ có thể hiểu được khi xem xét nghĩa của toàn Could You Be Loved.
Nhưng không chỉ thuần túy được nàng thơ và tư tưởng dẫn dắt, khi sáng tác Could You Be Loved, Marley đã nhắm tới cái đích mà anh cần gấp rút nếu muốn vươn tới trong những ngày ít ỏi còn lại của cuộc đời: Anh muốn thâm nhập vào thị trường Mỹ trước thềm chuyến lưu diễn lớn. Anh nhận ra dòng nhạc reggae không dễ được đông đảo khán giả da đen chấp nhận, vì vậy, anh đã viết bài hát với nhịp điệu nhanh hơn, gần như nhịp disco, kèm theo tiếng keyboards rạo rực không thể chối từ.
Could You Be Loved được phát hành dưới dạng đĩa đơn trong Uprising - album cuối cùng của Marley khi anh còn sống. Và đúng như Marley kỳ vọng, đây là ca khúc reggae đầu tiên nổi bật trên các đài phát thanh Mỹ. Lần đầu được phát bởi Frankie Crocker trên đài New York WBLS, hữu xạ tự nhiên hương, ca khúc nhanh chóng trở thành hit lớn nhất của Bob Marley and the Wailers.
Trên các BXH, ca khúc cũng đạt thành tích cao là No.5 trên UK Singles Chart và lần đầu lọt Billboard Hot Dance Club Party ở vị trí No.6. Đông đảo nghệ sĩ đã hát lại Could You Be Loved, bao gồm Joe Cocker, Toto, Shakespears Sister và Ziggy Marley and the Melody Makers. Nó sau đó được sử dụng trong nhiều phim, bao gồm I Love You To Death, How Stella Got Her Groove Back, Blue Crush, 50 First Dates và Fool’s Gold.
Giai điệu rộn ràng của “Could You Be Loved”:
Những giả thuyết
Nhưng chính xác bối cảnh mà Could You Be Loved được đặt vào là gì thì không ai biết.
Một số đơn giản dựa trên tiêu đề để cho rằng đó là bản tình ca. Những người khác nói Marley viết về ca khúc như một bản ballad về sự đói nghèo và khó khăn mà anh đã phải chứng kiến. Lại cũng có ý kiến rằng Marley viết trên máy bay từ Brazil để đáp lại tình yêu lớn lao mà anh nhận được khi biểu diễn ở đây.
Những người quen thuộc với tôn giáo Rastafari (đôi khi được gọi là Rastafarianism, là một tôn giáo của người Do Thái phát triển ở Jamaica trong những năm 1930) và phong cách trữ tình của Marley (trong đó Marley thường gọi mình là “bạn” đồng thời cũng là để nói về tất cả mọi người, một quan điểm xuất phát từ niềm tin của một Rasta rằng tất cả chúng ta đều là một) lại tin rằng Marley dùng ca khúc để truyền tải thông điệp khẩn cho bản thân và những người khác: Bằng mọi giá, hãy giữ vững tin thần và tâm linh trước Babylon – một thuật ngữ ám chỉ khía cạnh áp bức của nền văn hóa da trắng.
Thật ra, giả thuyết nào cũng có ít nhiều căn cứ.
Vào thời điểm Uprising phát hành, Bob Marley and the Wailers đang đi vào đúng quỹ đạo. Ban đầu chỉ là một nhóm suy sụp ở khu ổ chuột Jamaica vào năm 1963, tới cuối thập niên 1970, họ đã đứng ở vị thế hoàn toàn khác. Nhóm thành công vang dội quốc tế nhưng đi kèm theo những cạm bẫy: Tiền bạc, danh vọng, phụ nữ.
“Could You Be Loved” dường như là sự đúc kết cho mọi trải nghiệm cuộc đời của Bob Marley
Theo nhiều người, điều này càng khiến Marley có cảm giác mâu thuẫn giữa thành công và những gì anh thể hiện trong ca khúc của mình. Khi The Wailers bắt đầu thực hiện album cuối cùng của họ, anh cũng thường xuyên bị ốm vì đã sống với chẩn đoán từ năm 1977 về căn bệnh ung thư sẽ giết chết anh sau 1 năm phát hành Uprising. Có thể vì thế mà Could You Be Loved có nhiều câu nhấn mạnh việc giữ vững mình.
Việc sử dụng tiếng đàn cuica – hay trống ma sát, một nhạc cụ của Brazil – càng làm tăng uy tín cho giả thuyết rằng bài hát có liên quan tới Brazil.
Nhưng đồng thời, cũng có thể coi Could You Be Loved như một bài giảng hay lời cầu nguyện rời rạc, trong đó các bài Thánh Vịnh và đoạn kinh thánh được cô đúc rất đặc, mang tinh thần an ủi và cách mạng. “Tình yêu sẽ không bao giờ rời bỏ chúng ta” – với “tình yêu” có thể là ám chỉ tới Jah (cách gọi Chúa trong Rastafari).
Khi kết hợp với câu tiếp theo “trong bóng tối phải ló rạng ánh sáng” – một tham chiếu tới câu kinh thánh “Thật không có điều gì kín mà không phải lộ ra, không có điều gì giấu mà chẳng bị biết và tỏ ra” (Luke 8:17) – lời ca khúc còn có thể có ý nghĩa “Jah sẽ không bao giờ rời bỏ bạn, thế nên đừng lo lắng về bất cứ gì áp bức bạn bởi Jah sẽ hiển lộ và tiêu diệt nó”.
Tất cả những thứ ngấm ngầm trong bóng tối sẽ được đưa ra ánh sáng là một câu chuyện ngụ ngôn thường được sử dụng trong giáo lý Rasta về cái thiện chiến thắng cái ác. “Đừng để họ thay đổi ta! Hay thậm chí sắp xếp lại!” củng cố cho những dòng mở đầu. Cả 2 đều là lời cảnh báo chống lại sự giả mạo con cháu Jah. Câu cảm thán của Marley: “Chỉ những người khỏe mạnh nhất trong những người khỏe mạnh nhất mới sống sót! Hãy sống sót” như một lần nữa nhắc nhở về sức mạnh tinh thần.
Hoặc rất có thể, Could You Be Loved là sự hòa trộn của tất cả những giải thuyết trên, là sự đúc kết trải nghiệm cuộc đời vốn chứa tất cả những điều đó. Và giả thuyết cuối cùng này đứng vững khi Marley kết thúc ca khúc bằng đĩa đơn đầu tay của mình, tạo thành một vòng tròn khép kín như luân hồi.
Và như thế, dù có rẽ nhánh thế nào, mọi thứ đều quy tụ về điểm gốc, nơi ngay từ đầu Marley đã nhấn mạnh tầm quan trọng của đạo đức và niềm tin rằng chúng ta không bao giờ cô độc. Tình yêu sẽ không bao giờ rời bỏ chúng ta.
Ca khúc 'Redemption Song' của Bob Marley: Giải phóng những gông cùm tinh thần
Trong những ngày tự biết là cuối đời mình, dù mới ngoài 30, nhưng với cả một đời lăn lộn, dưới bùn rác và trên vinh quang, Bob Marley đã làm được điều mà Lev Tolstoy từng làm ở tuổi 80: Tìm kiếm sự giải phóng trong tinh thần.
Ở Tolstoy là cuốn sách Suy niệm mỗi ngày , còn ở Bob Marley là ca khúc Redemption Song (Khúc ca cứu chuộc).
1. Những kiệt tác này đều được cất lên ở ngoài thời gian, nơi giá trị của nó trường tồn, bất biến. Một cơn gió phiêu bồng thổi lên ngọn lửa lý trí, thui trụi những xiềng xích gông cùm của tinh thần.
Dường như tất cả những ai đam mê âm nhạc đều biết tới Redemption Song . Nó là thánh ca trong các thánh ca của Bob Marley, là minh chứng truyền tới công chúng vào cuối đời ông để nhắc nhở mọi người hãy tới nơi cần tới, là tinh thần thay thế sự vắng mặt xác thịt của huyền thoại reggae. Nếu tìm kiếm trên Google: Có vô vàn người trên thế giới vẫn đang nhờ nhạc của Bob Marley để có thể tiếp tục vượt qua những đòi hỏi của cuộc sống khắc nghiệt và khó khăn.
Jesus đã xuống thế gian, chịu nạn để cứu chuộc nhân loại dưới ách thống trị của tội lỗi. Ý tưởng về những ca khúc cứu chuộc cũng đã vang vọng trong nhiều thế kỷ. Kẻ khốn cùng trong Amazing Grace đã được giải thoát khỏi địa ngục bởi một ca khúc, một thanh âm mới ngọt ngào làm sao. Tội ác mà anh ta phải chịu cũng giống như tội ác gây ra cho Bob Marley trong Redemption Song : Tác giả Amazing Grace là một nô lệ còn Marley là hậu duệ của những nô lệ. Các ca khúc của Marley giải phóng anh, biến anh trở thành một người mang ý nghĩa nào đó - dù anh nhận thức rõ tình trạng nô lệ tinh thần vẫn tồn tại ngay cả khi con người nói rằng mình tự do.
Bìa đĩa đơn "Redemption Song" của Bob Marley
Trong Redemption Song , Marley một mình tự đệm guitar, vốn là ngoại lệ trong quy chuẩn của anh, nhưng không phải lạc đường. Marley, cũng như hầu hết các nhạc sĩ ở thế hệ anh, bị ảnh hưởng bởi sự bùng nổ nhạc dân gian đầu thập niên 1960. Anh biết về Bob Dylan và nhóm anh, The Wailers, đã chuyển thể Like A Rolling Stone thành Rolling Stone của riêng họ.
Nhưng đối với những người Jamaica nghèo đói, sở hữu một cây đàn guitar acoustic - dù đã cũ mòn vẹt hay chỉ là một chiếc "hộp xì gà" tự chế - là tất cả những gì họ cần để biểu lộ âm nhạc. Marley cũng từng viết những ca khúc trên một chiếc guitar acoustic kiểu đó, và ghi âm theo phong cách lãng đãng như vậy trong lán trại rách rưới cùng The Wailers. Chỉ tới khi ký hợp đồng với hãng đĩa Island vào năm 1973, có thể huy động cả ban nhạc trang bị đầy đủ, khía cạnh này mới bị gạt sang một bên.
Đối với ca từ Redemption Song , chúng cũng theo khuôn mẫu quen thuộc với chủ đề không chút xa lạ ở reggae. Marley có quan hệ với những nhạc sĩ từ Jamaica và Mỹ, những người đã viết bao tác phẩm cảm động về chủ đề tương tự. Bob Andy, người mà Marley cùng thu âm ở Studio One hồi đầu thập niên 1960, từng đề cập tới khái niệm tinh thần nô lệ trong ca khúc xuất sắc năm 1977 Ghetto Stays In The Mind : Một khi anh trải qua tranh đấu dai dẳng, nó sẽ không bao giờ rời anh.
James Brown, người đàn ông của soul có ảnh hưởng rất lớn tới Marley hồi thập niên 1960, đã nói về "cuộc cách mạng của tâm trí" trong tiêu đề một album và trong phiên khúc cuối của đĩa đơn chống hàng cấm năm 1972 King Her0in, miêu tả nghiện ngập như một hình thức nô lệ.
Toots & The Maytals, những người có sự nghiệp song hành với Bob Marley và The Wailers, không có sự nghiệp đột phá như Marley, cũng có ca khúc cảm động nhưng lạc quan Redemption Song năm 1973, ngợi ca Chúa.
Thánh ca Redemption Song của Marley cũng lấy cảm hứng từ Marcus Garvey, đặc biệt từ câu "Giải phóng bản thân khỏi tinh thần nô lệ... không ai khác ngoài chính bạn có thể giải phóng tâm trí mình" trong bài phát biểu năm 1937 của nhà hoạt động - triết học gốc Phi sinh ra ở Jamaica. Chính Marley, năm 1978, đã phát hành ở Jamaica, một đĩa đơn bao trùm những vấn đề tương tự, Blackman Redemption . Do đó, Redemption Song, không phải một ngoại lệ mà nằm trong chính trái tim âm nhạc Jamaica và những ảnh hưởng của nó, dù nội dung và nhịp điệu của nó khá khác so với nhạc reggae nói chung.
Tinh thần tự do của Bob Marley được đúc kết trong kiệt tác cuối đời "Redemption Song"
2. Redemption Song là tâm huyết cả đời đúc rút của Marley bởi khi viết, anh biết thời gian của mình trên Trái đất chẳng còn nhiều. Mùa Hè năm 1977, Marley bị chẩn đoán có khối u ác tính dưới ngón chân. Anh đã quyết định không cắt cụt ngón chân như đề nghị của bác sĩ. Anh vẫn tiếp tục lưu diễn, viết lách, thu âm, nhưng chỉ trong 2 năm, anh trở nên ốm yếu, gầy mòn, khác hẳn ngôi sao bùng nổ giữa thập niên 1970. Cái chết nằm ở trong tâm trí anh, mà vợ anh, Rita, nói rằng anh đau đớn và đã viết để "giải quyết cái chết của chính mình... đặc biệt trong ca khúc này".
Những bản thu âm đầu tiên của Redemtion Song có sự hỗ trợ của The Wailers. Marley đã gạt bỏ ít nhất 15 phiên bản với nhóm nhạc trung thành của anh trong năm 1980. Cũng có một đoạn acoustic, vài đoạn với ca từ được sửa để hợp với hệ thống âm thanh reggae, như thường lệ trong âm nhạc Jamaica. Một số phiên bản này khá lạc quan, gần giống nhịp ska.
Ông chủ Island, Chris Blackwell, gợi ý rằng phiên bản acoustic có lẽ sẽ để lại tác động hơn. Marley đồng tình - và họ đã đúng, ca khúc không cần bất cứ điểm trang nào. Vì vậy, phiên bản acoustic của Redemption Song trở thành ca khúc cuối cùng trong Uprising, album cuối cùng của Bob Marley & The Wailers phát hành khi anh còn sống. Một minh chứng cuối cùng về tinh thần tự do, có thể nói vậy.
Bài hát thể hiện cảm xúc của Marley về cái chết cận kề, chế độ nô lệ và tác động của nó tới thế hệ con cháu, tôn giáo và số phận, nhưng không quên gửi gắm lời động viên tới người hâm mộ. Đừng sợ, ca khúc nói. Sự tồn tại của bạn không được định nghĩa bởi những sức mạnh thế giới, bởi sự hủy diệt, bởi cái ác; mục đích của bạn không phải do thế lực hùng cường lệnh cho, mà bởi Đấng toàn năng. Những người hùng của bạn có thể chết, bạn có thể bị áp bức, bạn có thể cảm thấy mình không thể ngăn chặn những điều sai trái đang xảy ra, nhưng vũ trụ lớn hơn thế. Hãy cùng hát vang ca khúc này. Cuộc chiến lớn nhất của con người, để có thể thanh thản đối mặt với cái chết, là giải phóng tinh thần mình. Bạn có sức mạnh để giải phóng trí óc và tâm hồn mình. Bạn có thể được cứu chuộc.
"Chiến thắng chính mình thì vinh quang hơn là đánh bại hàng ngàn quân sĩ trên chiến trường" - như Lev Tolstoy viết trong cuốn sách chiêm nghiệm cuối đời của mình - Suy niệm mỗi ngày .
Giai điệu nhẹ nhàng, du dương của triết lý thượng thừa "Redemption Song":
"Thánh ca" về giải phóng
Redemption Song với giai điệu đầy ám ảnh đã lan rộng thông điệp của nó. Ung thư cướp đi thân thể Marley vào tháng 5/1981, 11 tháng sau khi album Uprising của anh được phát hành. Anh ra đi khi mới 36 tuổi. Nhưng những bản thu và hình ảnh của Marley vẫn tiếp tục sự nghiệp, và Redemption Song được coi như thánh ca về giải phóng, bản thu hay bậc nhất và mang thông điệp sống còn. Nó làm được điều này mà không gây chút khó chịu. Một người đàn ông sinh ra trong đói nghèo, đang mang trong mình căn bệnh nan y nhưng hát lên những lời nhẹ nhàng nhất.
Có nhiều phiên bản của Redemption Song , trong đó, cảm động nhất là phiên bản được ghi tại buổi diễn cuối cùng của Marley ở Pittsburgh ngày 23/9/1980. 2 ngày trước đó, anh gục ngã khi đang chạy bộ ở New York. Trong cơn bạo bệnh, anh giới thiệu Redemption là "ca khúc nhỏ này". Tay trống Conga tham gia cùng anh và họ lại như những ngày đầu của The Wailers, cùng trở lại tinh thần cốt lõi trong âm nhạc của anh giữa thập niên 1960. Một màn biểu diễn như thâu tóm cả một đời chiêm nghiệm.
Redemption Song được chơi trong nhiều bộ phim Hollywood. Nhiều huyền thoại khác hát lại nó, như Joe Strummer, Stevie Wonder, Ian Brown, Eternal, Madonna, Alicia Keys; và John Legend trước cái chết của Nelson Mandela... Nó mãi mãi là nguồn vỗ về, động viên cho những người bị áp bức trong cuộc chiến tìm kiếm tự do tinh thần.
BTS: Ước mơ của Jimin và V sau 2 đêm concert tại Mỹ khiến fan bật cười BTS đã dành toàn bộ tâm huyết của mình trên sân khấu Permission To Dance On Stage tại Mỹ. Sau 2 đêm diễn đầu tiên, thành viên Jimin và V mới đây đã tiết lộ ước mơ "nhỏ nhoi" của mình! BTS được biết đến là nghệ sĩ cuồng nhiệt, luôn cống hiến hết mình trong các buổi hòa nhạc trực tiếp. Vì...