“Bom nợ” từ các nền kinh tế đang phát triển
Ngân hàng thế giới (WB) cảnh báo, vay nợ của các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi đã lên mức kỉ lục 55.000 tỉ USD.
Vay nợ của các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi đã lên mức kỉ lục 55.000 tỉ USD.
“Quả bom nợ” mới
Theo báo cáo của WB, đây là mức vay nợ lớn nhất, nhanh nhất và có qui mô ảnh hưởng rộng lớn trong gần 5 thập kỉ qua. Khoản nợ này khiến các quốc gia dễ bị tổn thương và có thể rơi vào khủng hoảng tài chính nếu thời kỳ lãi suất thấp chấm dứt.
Cụ thể, trong báo cáo đánh giá về 4 giai đoạn tích tụ nợ nần từ năm 1970 đến nay, các chuyên gia của WB đã chỉ ra tỉ lệ nợ so với GDP của các nước đang phát triển đã tăng từ 54% lên 168% kể từ khi việc tích lũy nợ bắt đầu vào năm 2010. Trong đó ba giai đoạn gia tăng nợ trước đây đều kết thúc bằng các cuộc khủng hoảng tài chính ở các nước đang phát triển.
Khối nợ khổng lồ này bao gồm nợ công của các chính phủ, nợ doanh nghiệp và nợ của các cá nhân, hộ gia đình. Trong đó, một phần lớn trong số nợ này có nguồn gốc từ chương trình vay nợ của các nước nhằm vực dậy nền kinh tế sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008.
Đồng thời, phần lớn khối nợ này (22.000 tỉ đô la) đến từ Trung Quố khi tỷ lệ nợ trên GDP của quốc gia này đã tăng 72 điểm % kể từ năm 2010 lên mức 255% vào năm ngoái do nền kinh tế đang chững lại với tốc độ tăng trưởng thấp nhất trong gần ba thập kỷ qua, buộc Bắc Kinh phải thắt chặt dòng chảy ngân sách để đối phó với vấn đề nợ công.
Video đang HOT
Đồng thời, Trung Quốc cũng là nước vay nợ lớn nhất trong các nền kinh tế đang phát triển nhưng nước này cũng là chủ nợ lớn của nhiều nước nghèo khác. Các nước đang phát triển có xu hướng thích vay từ Trung Quốc vì điều kiện vay dễ dàng hơn cùng chi phí vay nợ thấp. Tuy nhiên, khi cho vay, Trung Quốc thường áp các điều khoản yêu cầu không được tiết lộ thông tin và các yêu cầu thế chấp tài sản khác.
Chính vì vậy, bà Ceyla Pazarbaiolu, phó chủ tịch phụ trách phát triển bình đẳng, tài chính và các tổ chức của WB, nhận định, trong quá khứ, các khoản vay nợ lớn tăng vọt thường đi cùng với các cuộc khủng hoảng tài chính tại các nước đang phát triển và gây ra thiệt hại rất lớn cho nền kinh tế.
Mặc dù nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế vững chắc là cách dễ dàng nhất để thoát nợ, song điều này không phải lúc nào cũng sớm diễn ra. Trên thực tế, nhiều quốc gia đang phải vật lộn với mức tăng trưởng kinh tế thấp nhất kể từ sau khủng hoảng tài chính đến nay. Một loạt các lựa chọn về cách vực dậy nền kinh tế của nhiều nước lúc này đều có một mẫu số chung: Tiếp tục vay thêm!
Đồng thời, các khoản nợ của các quốc gia phần lớn là vay bên ngoài và thường được vay bằng ngoại tệ đã làm giảm giá trị đồng tiền quốc gia. Điều này có thể làm tình hình nợ xấu đi đáng kể. Cùng với đó, nhiều nước đang phát triển vẫn phụ thuộc vào xuất khẩu hàng hóa. Tuy nhiên, giá của những loại hàng hóa này thường không ổn định do cuộc chiến thương mại gia tăng và có xu hướng kéo dài.
Có thể thấy, vấn đề nợ gia tăng cùng nhiều tổn thương khác như mức thâm hụt tài khoản vãng lai gia tăng, nguồn thu thuế thấp, trốn thuế tràn lan…có thể dẫn đến các cuộc khủng hoảng nợ trong tương lai nếu các nhà hoạch định chính sách không nhanh chóng hành động để củng cố tính ổn định trong vay nợ và giảm nguy cơ rơi vào những cú sốc kinh tế.
Cần cẩn trọng
Hiện nay, nợ công của Việt Nam đã giảm gần 8 điêm % GDP so với năm 2016. Điều này nhờ Chính phủ nỗ lực đạt được nhiều thành tựu trong duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng bền vững. Cùng với tốc độ tăng trưởng cao, lạm phát ổn định, thu ngân sách nhà nước đạt và vượt dự toán; chi ngân sách tiết kiệm, hiệu quả; bội chi và nợ công giảm mạnh.
Cùng với sự phát triển của thị trường tài chính, thời gian qua ngành tài chính đã nỗ lực trong cơ cấu lại nợ công. Nợ công chủ yếu là trái phiếu Chính phủ vay trong nước, giai đoạn trước vay nước ngoài chiếm hơn 60%/GDP, nhưng nay chỉ còn 39%/GDP và vay trong nước là 61%/GDP.
Tuy nhiên, theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, mặc dù tỷ lệ nợ công so với GDP đã có xu hướng giảm, nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, còn một số vấn đề thực tế đặt ra có tác động đến sự an toàn của nợ công tại Việt Nam.
Ngoài ra, nghĩa vụ trả nợ của ngân sách đang ngày càng tăng làm gia tăng áp lực trả nợ trong thời gian tới khi nhiều khoản vay trong nước cơ bản sẽ đến hạn sau 5 năm vay; một số khoản vay ODA, kể cả có lãi và không lãi cũng đến hạn phải trả nợ gốc vào năm 2020.
Chính vì vậy, trong năm 2020, Việt Nam cần có chính sách cân đối giữa quản lí để giảm nợ và nhu cầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng để hiện thực hóa các tiềm năng kinh tế. Bên cạnh đó, cần quan sát và theo dõi những biến động của nền kinh tế toàn cầu để có những chính sách điều chỉnh kịp thời.
Cẩm Anh
Theo Enternews.vn
WB cảnh báo nguy cơ khủng hoảng từ nợ công
Ngân hàng Thế giới (WB) cảnh báo nợ công ở các nước đang phát triển và mới nổi tăng nhanh nhất, nhiều nhất ở bất kỳ giai đoạn nào trong suốt 5 thập niên qua.
Một dự án bất động sản không có người ở làm gia tăng nợ công tại Trung Quốc
Tác động lớn
WB cho rằng, tình trạng nợ công tăng nhanh có thể dẫn tới một cuộc khủng hoảng và nếu xảy ra vỡ nợ, hậu quả sẽ trầm trọng hơn khi các công ty tư nhân bị nhấn chìm giữa lúc kinh tế tăng trưởng chậm chạp. Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), tính đến cuối năm 2018, tổng nợ toàn cầu đã tăng lên tới 188.000 tỷ USD, tương đương 230% GDP thế giới. WB và IMF đã từng liên tiếp cảnh báo về tình trạng nợ toàn cầu gia tăng trong nhiều năm qua; nhưng báo cáo mới nhất của WB đưa ra cảnh báo mạnh mẽ và khẩn thiết hơn, trong đó kêu gọi các chính phủ sớm đưa ra các giải pháp để ngăn chặn nguy cơ khủng hoảng nợ có thể xảy ra.
Báo cáo của WB nhấn mạnh tình trạng nợ công tăng đột biến ở các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi, cho rằng đây là đợt tăng lớn nhất, nhanh nhất trong 50 năm qua. Khối nợ khổng lồ này bao gồm nợ công của các chính phủ, nợ doanh nghiệp và nợ của các cá nhân, hộ gia đình. Theo hãng tin Bloomberg, một phần lớn trong số nợ này có nguồn gốc từ chương trình vay nợ của các nước nhằm vực dậy nền kinh tế sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008. Theo WB, nợ ở các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi đã giảm trong thời gian xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, nhưng chỉ trong vòng 8 năm kể từ 2010, do chi phí vay thấp, nợ tại các nền kinh tế này đã tăng lên đến mức cao nhất từ trước đến nay, tương đương 170% GDP (khoảng 55.000 tỷ USD).
Riêng Trung Quốc đã góp một phần lớn vào mức tăng nợ công (hơn 20.000 tỷ USD), nhưng nước này cũng là "chủ nợ" lớn của các nước thu nhập thấp. Theo các chuyên gia kinh tế, mức tăng nợ công của Trung Quốc phần lớn đến từ các dự án kinh tế kém hiệu quả của địa phương. Trong thời kỳ kinh tế Trung Quốc bùng nổ, chính quyền các tỉnh thành đua nhau vay tiền để thực hiện những dự án "khủng" như xây dựng sân vận động, công viên, đường cao tốc, dự án bất động sản... nhằm mục đích tạo ra càng nhiều công ăn việc làm càng tốt. Việc nền kinh tế đang chững lại với tốc độ tăng trưởng thấp nhất trong gần ba thập kỷ qua, buộc Bắc Kinh phải thắt chặt dòng chảy ngân sách để đối phó với vấn đề nợ công.
Chính phủ là "con nợ" khủng
"Núi nợ công" còn tăng lên rất nhiều, không chỉ ở châu Á mà còn ở Mỹ và châu Âu. Những khoản nợ của các sinh viên làm tê liệt những gia đình ở Mỹ; mức thế chấp cao ngất trời đe dọa nền tài chính Australia. Ở cấp độ quốc gia, các chính phủ cũng là những "con nợ" khủng: Nhật Bản đang có mức nợ công bằng 228% GDP; nợ công của Mỹ và Anh là 100% GDP; mức nợ công cũng khá cao ở những nước khác như Ấn Độ, Pakistan và Malaysia. Chính phủ mới đắc cử của Argentina đã cam kết sẽ tái đàm phán hạn mức tín dụng kỷ lục 56 tỷ USD với IMF. Không chỉ Argentina, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Phi, một số nước khác cũng đang có chung nỗi ám ảnh này. Về nợ của doanh nghiệp, chỉ riêng các công ty Mỹ đã chiếm khoảng 70% trong tổng số các vụ doanh nghiệp vỡ nợ trong năm nay, ngay cả trong tình hình kinh tế Mỹ đang có chỉ số tăng trưởng mạnh.
Tại Trung Quốc, theo tờ South China Morning Post, tổng nợ vay của khối doanh nghiệp đã bằng 155% GDP nước này, chỉ đứng sau đặc khu Hồng Công với tỷ lệ 224%. Ở cấp độ hộ gia đình, Australia và Hàn Quốc là những quốc gia có mức nợ lớn nhất. Nợ gia đình ở Hàn Quốc đang bằng 94% GDP, ở Anh tỷ lệ này là 84% và ở Mỹ là 74%.
WB khuyến cáo rằng, quản lý nợ tốt, thu thuế được cải thiện, tỷ giá hối đoái linh hoạt và các nguyên tắc tài chính chặt chẽ hơn nhằm kiểm soát chi tiêu, có thể giúp ngăn chặn một cuộc khủng hoảng, thậm chí giảm những tác động nếu cú sốc xảy ra.
THANH HẰNG tổng hợp
Theo sggp.org.vn
Triển vọng tín nhiệm Việt Nam có đáng ở mức Ba3? Việc giữ nguyên xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam ở mức Ba3, điều chỉnh triển vọng xuống tiêu cực (negative) như thông báo của Moody's có vẻ đã bỏ qua nhiều yếu tố tích cực... Moody's Investors Service (Moody's) thông báo giữ nguyên xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam ở mức Ba3 đối với các khoản phát...