Bộ Tư pháp phải là “người gác gôn” của Chính phủ trong các vấn đề pháp lý quốc tế
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, Bộ Tư pháp phải là “ nhạc trưởng”, cơ quan “gác cửa” trong việc bảo đảm tính thống nhất, tính hợp pháp, hợp lý, khả thi của hệ thống pháp luật và là “người gác gôn” của Chính phủ trong vấn đề pháp lý quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc.
Chiều ngày 8/1, tại Hà Nội, Bộ Tư pháp tổ chức Hội nghị toàn quốc triển khai công tác tư pháp năm 2019. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc dự và chỉ đạo Hội nghị.
Cùng dự Hội nghị có Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình, Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long và lãnh đạo một số ban, bộ, ngành, Uỷ ban của Quốc hội…
Hội nghị toàn quốc triển khai công tác tư pháp năm 2019. Ảnh: TH.
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao sự có mặt của đại diện lãnh đạo các cơ quan của Quốc hội, các bộ, ngành, cơ quan liên quan, điều này thể hiện sự quan tâm đối với việc xây dựng thể chế chính sách.
Thay mặt Lãnh đạo Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc biểu dương, ghi nhận những kết quả toàn ngành Tư pháp đạt được thời gian qua một cách toàn diện, vượt chỉ tiêu của Đảng, Quốc hội giao cả số lượng và chất lượng, góp nên bức tranh đa màu trong sự phát triển của đất nước”
Tuy nhiên, Thủ tướng cũng cho rằng, mặc dù có nhiều tiến bộ, nhưng công tác xây dựng thể chế, pháp luật vẫn còn bất cập, nhất là một số văn bản chưa theo kịp thực tiễn, thiếu khả thi. Có văn bản mới ban hành đã phải sửa đổi, bổ sung.
Điểm qua nhiều sai phạm được phát hiện trong quản lý nhà nước thời gian qua liên quan đến đất đai, tài sản công, cổ phần hóa, vụ việc AVG, Thủ Thiêm, nhất là tại địa bàn thành phố lớn… vấn đề Thủ tướng trăn trở là “cán bộ pháp chế với tư cách người gác gôn về pháp luật nghĩ gì, đã làm hết trách nhiệm tham mưu cho lãnh đạo chưa hay góp ý nhưng lãnh đạo không nghe, có vấn đề gì trong tham mưu không”. Thủ tướng nhấn mạnh, cán bộ tư pháp cần làm hết chức trách, nhiệm vụ trong việc can gián này thì sai phạm ít xảy ra.
Thủ tướng cũng thẳng thắn cho rằng tình trạng nhờn luật còn khá phổ biến thì Bộ, ngành Tư pháp cần có đề xuất đột phá để thực thi pháp luật hiệu quả hơn. Hoạt động một số nghề tư pháp còn tiềm ẩn phức tạp, còn bộc lộ nhiều bất cập. Giám định tư pháp rất nhiều tồn tại, nhất là giám định phục vụ các vụ án tham nhũng lớn, chậm về thời gian, giám định sai. Tham gia tranh tụng quốc tế tuy cố gắng nhưng ở địa phương còn bị động. Án dân sự chưa có điều kiện thi hành ngày càng tăng, tỷ lệ thu hồi tài sản thấp…
Nhấn mạnh chương trình hành động của Chính phủ với phương châm “12 chữ”, trong đó có chữ “bứt phá”; Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu là “năm 2019 phải hơn năm 2018″, Thủ tướng đặt vấn đề, nội dung “bứt phá” của Bộ Tư pháp trong năm 2019 là gì?.
Video đang HOT
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị. Ảnh: TH.
Thủ tướng nêu rõ, với chức năng vai trò được giao, Bộ Tư pháp cần xác định tập trung thực hiện tốt nhất nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế. Theo đó, phải là “nhạc trưởng”, cơ quan “gác cửa” trong việc bảo đảm tính thống nhất, tính hợp pháp, tính hợp lý, khả thi của hệ thống pháp luật và là “người gác gôn” của Chính phủ trong vấn đề pháp lý quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc. Đồng thời, triển khai Nghị quyết 01, 02 của Chính phủ một cách rõ nét, bài bản hơn, trong đó tập trung trả lời vai trò “nhạc trưởng” là gì, như thế nào – đó là tham mưu cho Chính phủ nâng cao chất lượng xây dựng thể chế, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi theo tiêu chuẩn ASEAN, hướng tới tiêu chuẩn OECD, khát vọng đưa dân tộc tiến bước sát cánh cùng các nước tiến bộ và tạo điều kiện cho khởi nghiệp, sáng tạo ở nước ta.
“Các đồng chí là nhạc trưởng, là cơ quan gác cửa trong việc bảo đảm tính thống nhất, tính hợp pháp, tính hợp lý và khả thi của hệ thống pháp luật và là người gác gôn của Chính phủ trước các vấn đề pháp lý quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích của quốc gia, dân tộc”, Thủ tướng nêu rõ.
Cùng với đó, Bộ Tư pháp cần tham mưu cho Chính phủ nâng cao chất lượng xây dựng, hoàn thiện thể chế, cải cách tư pháp để thực hiện các mục tiêu như tạo môi trường đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện cho khởi nghiệp…; đôn đốc, chủ trì hướng dẫn một số công việc trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh đúng tiến độ, phải gương mẫu trình đúng thời hạn. Trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, cần tiếp tục rà soát, thực hiện đúng phương châm “tư pháp hướng về cơ sở, vì dân, gần dân” cần coi trọng công tác xây dựng đảng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có đủ trình độ tham gia các vụ tranh chấp quốc tế…
Chia sẻ với những khó khăn, vất vả trong công việc của cán bộ tư pháp, pháp chế, Thủ tướng đề nghị các lãnh đạo bộ, ngành, địa phương quan tâm hơn nữa đến chính sách, chế độ đối với đội ngũ cán bộ pháp chế.
Theo báo cáo của Bộ Tư pháp, trong năm 2018, toàn Ngành tư pháp thực hiện bảo đảm chất lượng, tiến độ các nhiệm vụ theo chương trình, kế hoạch đã đề ra từ đầu năm và hoàn thành bảo đảm chất lượng, tiến độ nhiều nhiệm vụ phát sinh thêm, nhất là các nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao; phản ứng kịp thời, hiệu quả đối với những vấn đề “ nóng”, ngày càng tham gia sâu vào các vấn đề pháp lý đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và của từng địa phương.
Công tác cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong Ngành được đẩy mạnh, các chỉ số xếp hạng về cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin của Bộ tiếp tục được cải thiện. Chất lượng hồ sơ các dự án luật, pháp lệnh và chất lượng công tác thẩm định có nhiều cải thiện; nợ đọng văn bản quy định chi tiết giảm so với năm trước.
Công tác phổ biến giáo dục pháp luật xuất hiện một số mô hình hay, hiệu quả. Thi hành án dân sự tiếp tục đạt kết quả cao, thi hành án hành chính dần đi vào nề nếp. Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử đang phát triển khá nhanh; đã giải quyết được số lượng lớn yêu cầu của người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực hành chính tư pháp. Việc xã hội hoá các nghề tư pháp được thực hiện thận trọng, hiệu quả hơn, chất lượng hành nghề được cải thiện, quy trình cấp phép dần được chuẩn hoá. Việc giải quyết tranh chấp đầu tư đạt nhiều kết quả cụ thể; hợp tác quốc tế về pháp luật tiếp tục tạo được những dấu ấn quan trọng…/.
Thu Hằng
Theo ĐCSVN
Luật hòa giải, đối thoại tại tòa án sẽ được thảo luận tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV
Tăng cường hòa giải, đối thoại luôn là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, được xác định trong nhiều văn kiện quan trọng về cải cách tư pháp.
Sáng 10/12, tại Tòa nhà Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã họp phiên họp thứ 29 dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân. Theo Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, dự kiến tháng 10/2019 Quốc hội thảo luận, cho ý kiến lần thứ nhất đối với dự án Luật. Tháng 5/2020, Quốc hội thảo luận lần thứ hai và thông qua dự thảo Luật hòa giải, đối thoại tại tòa án.
Tăng cường hòa giải, đối thoại
Trình bày trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Tờ trình đề nghị xây dựng Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình cho rằng: Hòa giải, đối thoại đã trở thành nhu cầu và đòi hỏi ngày càng cao của người dân và xã hội để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình trình bày tờ trình đề nghị xây dựng Luật hòa giải, đối thoại tại tòa án. Ảnh: Trọng Đức - TTXVN
"Với cách thức thân thiện, đồng thuận trên nguyên tắc chia sẻ, cảm thông, cao thượng, "hai bên cùng thắng", hòa giải, đối thoại góp phần hàn gắn những mâu thuẫn, rạn nứt, nâng cao ý thức pháp luật của người dân, ngăn ngừa các tranh chấp trong tương lai. Hòa giải thành, đối thoại thành, giúp giải quyết triệt để các tranh chấp mà không phải mở phiên tòa xét xử; kết quả hòa giải thành, đối thoại thành phần lớn được các bên tự nguyện thi hành; vụ việc không phải trải qua thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm theo quy định của các luật tố tụng; tiết kiệm chi phí, thời gian, công sức của các bên liên quan và Nhà nước; hạn chế tranh chấp, khiếu kiện kéo dài, gây bức xúc trong dư luận. Tăng cường hòa giải, đối thoại luôn là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, được xác định trong nhiều văn kiện quan trọng về cải cách tư pháp", Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nhấn mạnh.
Cũng theo ông Nguyễn Hòa Bình, việc xây dựng Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án nhằm đạt được các mục đích: Xây dựng cơ chế pháp lý mới hiệu quả về hòa giải, đối thoại tại Tòa án để cơ quan, tổ chức, cá nhân lựa chọn giải quyết tranh chấp dân sự, hành chính.
Cơ chế hòa giải, đối thoại này độc lập, song song với các cơ chế hiện có; không mâu thuẫn, không triệt tiêu, không thay thế các cơ chế hòa giải, đối thoại khác trong tố tụng cũng như ngoài tố tụng hiện có; tăng cường phương thức tiếp cận công lý, nâng cao quyền tự định đoạt của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thu hút, huy động nguồn nhân lực chất lượng cao trong xã hội tham gia phối hợp cùng Tòa án tiến hành hòa giải, đối thoại để giải quyết các tranh chấp dân sự, hành chính; giảm số lượng vụ việc mà Tòa án phải thụ lý, giải quyết; giảm tải áp lực công việc cho Tòa án, khắc phục một phần tình trạng thiếu nguồn nhân lực tại Tòa án.
Khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng cơ chế hòa giải, đối thoại trước khi Tòa án thụ lý vụ việc để giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp; tăng tỷ lệ hòa giải, đối thoại thành; rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính.
Theo bà Lê Thị Nga, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Quốc hội, vai trò của hòa giải rất quan trọng, việc không phải xử tại tòa mà tiến hành hòa giải sẽ tránh lãng phí. Ủy ban Tư pháp cũng đã có báo cáo thẩm tra và hoan nghênh ý tưởng của Tòa án nhân dân Tối cao. Trong quá trình soạn thảo, Tòa án nhân dân Tối cao tiếp tục tiếp thu để chỉnh sửa và trình trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội.
Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Quốc hội, Lê Thị Nga phát biểu tại kỳ họp. Ảnh Viết Tôn
"Việc đánh giá thực trạng trong việc hòa giải cần có đánh giá thống nhất. Để có Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án, cần đánh giá tác động sâu rộng bởi hiện có rất nhiều loại hòa giải ở cơ sở, cho nên cần xem xét để tránh chồng chéo", bà Lê Thị Nga phát biểu.
Giải quyết các tranh chấp dân sự, hành chính thông qua hòa giải, đối thoại
Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao Nguyễn Hòa Bình cho biết, theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, tỷ lệ hòa giải thành, đối thoại thành trong giải quyết các vụ án dân sự, hành chính của các Tòa án chiếm tỷ lệ thấp, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn (tỷ lệ hòa giải thành khoảng trên 40% nhưng chủ yếu là hòa giải thuận tình ly hôn; tỷ lệ đối thoại thành chỉ đạt gần 8% trong tổng số vụ án đã giải quyết). Việc hòa giải tiến hành theo Luật Hòa giải ở cơ sở đã đạt được một số kết quả nhất định đối với những mâu thuẫn, vi phạm pháp luật nhỏ ở cấp cơ sở.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, có thể phân loại thành hai nhóm là: Hòa giải, đối thoại trong tố tụng và hòa giải, đối thoại ngoài tố tụng. Về hòa giải, đối thoại trong tố tụng: Được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính. Về hòa giải, đối thoại ngoài tố tụng: Pháp luật hiện hành còn quy định một số cơ chế hòa giải ngoài tố tụng như: Hòa giải ở cơ sở theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013; hòa giải tranh chấp lao động cá nhân, tranh chấp lao động tập thể theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2012; hòa giải thương mại theo quy định của Luật Thương mại và Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24-02-2017 của Chính phủ về hòa giải thương mại; hòa giải tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định của Luật Đất đai năm 2013; hòa giải theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005; hòa giải theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.
Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều mâu thuẫn, tranh chấp chưa được hòa giải hoặc hòa giải không kịp thời dẫn đến tranh chấp, khiếu kiện kéo dài. Về hòa giải thương mại theo Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24/2/2017 của Chính phủ, thì đến nay mới chỉ có 2 Trung tâm trọng tài thương mại được cung cấp dịch vụ hòa giải thương mại. Về hòa giải tranh chấp lao động, số vụ được Hòa giải viên lao động thụ lý rất thấp.
Chỉ ra những hạn chế của các cơ chế hòa giải, đối thoại hiện hành, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cho rằng: Cơ chế hòa giải ngoài tố tụng được nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân tiến hành theo quy định của pháp luật hiện hành nhưng chất lượng hòa giải còn hạn chế; phần lớn là những tranh chấp, xích mích nhỏ; kết quả hòa giải không có giá trị bắt buộc nên hiệu lực thi hành không cao.
Cơ chế hòa giải, đối thoại trong tố tụng có giá trị pháp lý và được thi hành bằng con đường thi hành án nhưng chủ thể tiến hành hòa giải, đối thoại là Thẩm phán - người sẽ tiến hành xét xử (nếu hòa giải, đối thoại không thành), bị hạn chế bởi các quy định pháp luật về sự vô tư, khách quan, chỉ tuân theo pháp luật, phải chấp hành quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán nên khó linh hoạt để đưa ra những lời khuyên có tình, có lý giúp các bên tranh chấp cảm thông, chia sẻ, nhượng bộ và thỏa thuận cách giải quyết. Với áp lực công việc rất lớn nên việc đầu tư thời gian, công sức của các Thẩm phán cho công tác hòa giải, đối thoại cũng hạn chế.
Đối với các khiếu kiện hành chính, trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó tham gia đối thoại. Trong bối cảnh các khiếu kiện hành chính ngày càng nhiều, phức tạp, xảy ra trên các lĩnh vực khác nhau, việc tổ chức đối thoại gặp nhiều khó khăn, kết quả đối thoại thành không nhiều.
Những năm qua, các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tiếp tục tăng mạnh tỷ lệ thuận với quy mô tăng dân số và tăng trưởng của nền kinh tế; tính chất các vụ việc ngày càng phức tạp; số lượng các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ngày càng nhiều. Tòa án luôn trong tình trạng quá tải; nhiều vụ án dân sự, hành chính phải xét xử qua nhiều cấp trong nhiều năm; bản án, quyết định của Tòa có hiệu lực pháp luật nhưng chậm được thi hành đã ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, ảnh hưởng đến niềm tin của người dân đối với Tòa án.
Với thực trạng pháp luật và tình hình giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính thông qua hòa giải, đối thoại như trên đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nghiên cứu, xây dựng một cơ chế pháp lý mới về hòa giải, đối thoại đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi của người dân và xã hội.
Theo Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, dự kiến tháng 10/2019 Quốc hội thảo luận, cho ý kiến lần thứ nhất đối với dự án Luật. Tháng 5/2020, Quốc hội thảo luận lần thứ hai và thông qua dự thảo Luật.
Viết Tôn/Báo Tin tức
Theo Tintuc
Ông Mai Lương Khôi làm Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS Ngày 11-10, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long đã ký quyết định bổ nhiệm ông Mai Lương Khôi giữ chức vụ Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự (THADS) - Bộ Tư pháp kể từ ngày 16-10-2018. Theo đó, thời hạn mà ông Mai Lương Khôi giữ chức vụ là năm năm kể từ ngày được bổ nhiệm....