Bộ Tài chính: Chính sách hiện hành đã có nhiều ưu đãi cho công nghiệp hỗ trợ
Tham gia ý kiến vào dự thảo Nghị quyết các giải pháp thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ Việt Nam của Bộ Công Thương, Bộ Tài chính đã phản hồi lại một số đề xuất về chính sách thuế và tín dụng đầu tư. Đây là lần thứ 3 Bộ Tài chính tham gia vào dự thảo này.
Năm 2019, kim ngạch nhập khẩu động cơ, hộp số ô tô chủ yếu đến từ Hàn Quốc (33,7%), Trung Quốc gần 20%, ASEAN và Nhật Bản trên 18%. Ảnh: H.P.
Tăng rủi ro khi phụ thuộc vào một thị trường
Một trong những nội dung đáng chú ý là phản hồi đối với đề xuất sửa Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN – Hàn Quốc giai đoạn 2018 – 2022 theo hướng giảm thuế với động cơ, hộp số về 0% đến năm 2025, mức tương đương cam kết tại Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN (ATIGA).
Nêu ra quan điểm, Bộ Tài chính cho biết, thuế suất ưu đãi đặc biệt của các dòng hàng động cơ và hộp số ô tô tại ATIGA là 0%, trong hiệp định ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA) không được hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt.
Còn tại Hiệp định Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA), mức thuế suất ưu đãi lần lượt là 0%; 4,2%; 13,3%; 18%; 20% tại năm 2019. Các mức ưu đãi hiện nay bằng hoặc thấp hơn so với thuế suất nhập khẩu ưu đãi thông thường (MFN) năm 2018.
Như vậy, nếu điều chỉnh thuế suất trong AKFTA và VKFTA đang ở mức bằng hoặc thấp hơn MFN 7-25% về mức tương đương với cam kết ATIGA (0%) sẽ đẩy nhanh cam kết trong 2 hiệp định nói trên, đồng thời có thể gây ra chuyển hướng thương mại tới các nước được hưởng thuế suất ưu đãi của Hiệp định.
Cơ quan này dẫn chứng thêm, năm 2019, kim ngạch nhập khẩu động cơ, hộp số ô tô chủ yếu đến từ Hàn Quốc (33,7%), Trung Quốc (gần 20%), ASEAN và Nhật Bản (trên 18%). Nếu doanh nghiệp muốn được hưởng thuế suất thấp có thể lựa chọn nhập khẩu từ các nước ASEAN, Nhật Bản…
Video đang HOT
Trong bối cảnh nhập khẩu động cơ, hộp số từ Hàn Quốc đang chiếm tỷ trọng lớn, Bộ Tài chính cho rằng, nếu đẩy nhanh cam kết trong AKFTA, VKFTA có thể khiến tỷ trọng này tăng lên, tăng rủi ro khi phụ thuộc vào một thị trường cũng như không đa dạng hoá nguồn cung khác nhau cho doanh nghiệp và giảm thu từ thuế nhập khẩu.
Mặt khác, ngành sản xuất lắp ráp ô tô thuộc danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên tại Nghị định 111/2015/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển công nghiệp hỗ trợ, được miễn thuế nhập khẩu 5 năm từ ngày dự án bắt đầu sản xuất với nguyên, vật liệu, linh kiện trong nước chưa sản xuất được.
Theo Bộ Tài chính, các quy định về thuế đã khuyến khích sản xuất, tạo điều kiện cho các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, trong đó có ngành sản xuất, lắp ráp ô tô, vì thế, đề nghị Bộ Công Thương bỏ quy định này ra khỏi dự thảo Nghị quyết.
Chỉ nêu nguyên tắc sửa Luật
Cũng liên quan đến thuế, Bộ Công Thương đưa ra trong dự thảo những đề xuất khá cụ thể, trình cấp thẩm quyền sửa đổi các Luật thuế nhằm hoàn thiện và đơn giản hóa các chính sách, thủ tục về thuế để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp công nghiệp cũng như công nghiệp hỗ trợ.
Thực tế, thời gian qua, Bộ Chính trị, Quốc hội đều đã có Nghị quyết, trong đó chỉ đạo mở rộng cơ sở thuế, hạn chế tối đa việc lồng ghép chính sách xã hội trong các sắc thuế và chính sách miễn, giảm, giãn thuế, đảm bảo tính trung lập của thuế. Triển khai các chỉ đạo này, Bộ Tài chính cũng đã có phương án.
Do vậy, Bộ Tài chính đề nghị Bộ Công Thương không nêu cụ thể việc sửa đổi Luật thuế Giá trị gia tăng, Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế Thu nhập cá nhân trong dự thảo này mà chỉ nêu nguyên tắc chung là nghiên cứu, trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các Luật thuế nhằm khuyến khích ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển.
Bộ Tài chính cũng muốn bỏ khỏi dự thảo Nghị quyết quy định về ưu đãi tín dụng riêng cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Thay vào đó sửa thành “việc vay vốn đầu tư các dự án công nghiệp hỗ trợ thực hiện theo quy định hiện hành”.
Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng không ủng hộ có giải pháp ưu tiên các nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi từ các nhà tài trợ, tạo nguồn tín dụng với lãi suất ưu đãi cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ.
Cũng theo dự thảo Nghị quyết, Bộ Công Thương muốn bổ sung quy định Trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp được dùng ngân sách từ nhiệm vụ không thường xuyên trong 5 năm. Tuy nhiên, Bộ Tài chính đề nghị bỏ nội dung này với lý do “không phù hợp”.
Kiến nghị bổ sung mặt hàng phân bón vào đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng
Bộ Tài chính đã nghiên cứu kiến nghị của doanh nghiệp và đưa vào nội dung sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng; trong đó, có nội dung chuyển mặt hàng phân bón từ đối tượng không chịu thuế sang đối tượng áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng 5%.
Nhân viên Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật kiểm tra sản phẩm phân bón tại kho hàng của Công ty TNHH Thương mại tổng hợp Hữu Hảo, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Ảnh minh họa: Vũ Sinh/TTXVN
Ngày 23/4, trả lời phóng viên TTXVN về kiến nghị của các doanh nghiệp phân bón xem xét đưa mặt hàng này vào đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng đến mức 5%, ông Phạm Đình Thi, Vụ trưởng Vụ chính sách Thuế (Bộ Tài chính) cho biết, tại khoản 3a Điều 5 của Luật Thuế giá trị gia tăng, quy định phân bón thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng. Tuy nhiên, để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất phân bón, Bộ Tài chính đã nghiên cứu kiến nghị của doanh nghiệp và đưa vào nội dung sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng; trong đó, có nội dung chuyển mặt hàng phân bón từ đối tượng không chịu thuế sang đối tượng áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng 5%. Nội dung dự án Luật Thuế giá trị gia tăng sửa đổi đã được Bộ Tài chính báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Theo ông Phạm Đình Thi, Thủ tướng Chính phủ đã xem xét vấn đề này và đề nghị Bộ Tài chính chuẩn bị các nội dung sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng để trình Quốc hội theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nhưng theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, muốn sửa đổi luật phải được đưa vào Chương trình xây dựng luật của Quốc hội, nhưng hiện nay, dự án Luật Thuế giá trị gia tăng sửa đổi chưa được đưa vào chương trình họp Quốc hội kỳ này.
Hiện nay, do mặt hàng phân bón thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng nên các doanh nghiệp sản xuất phân bón không được khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng hàng hóa, dịch vụ mua vào, kể cả thuế giá trị gia tăng của hàng hóa mua vào hoặc nhập khẩu để tạo tài sản cố định dùng cho sản xuất phân bón.
Vì vậy, theo Hiệp hội Phân bón Việt Nam, các doanh nghiệp sản xuất phân bón tại Việt Nam đang hạch toán toàn bộ chi phí này vào chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm làm cho giá thành sản phẩm tăng từ 5 - 8%.
Đại diện Công ty CP Phân bón Dầu khí Cà Mau (PVCFC - Đạm Cà Mau) cho biết, mỗi năm Đạm Cà Mau không được khấu trừ gần 350 tỷ đồng tiền thuế, buộc phải đưa vào giá bán.
Tổng Công ty Phân bón và Hoá chất D ầu khí (PVFCCo) do không được khấu trừ thuế giá trị gia tăng 300-370 tỷ đồng/năm, nên tổng tiền thuế không được khấu trừ mà phải hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh từ năm 2015-2019 của doanh nghiệp này 1.637 tỷ đồng.
Trong khi đó, với chi phí nguyên liệu sản xuất phân bón rất thấp lại được hưởng lợi thế về thuế nhập khẩu bằng 0% và những cam kết trong hiệp định thương mại tự do, phân bón nhập khẩu từ các nước như Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Philipines, Nga và Trung Đông đang "đổ bộ" vào Việt Nam, tạo ra cạnh tranh khốc liệt cho sản phẩm phân bón Việt Nam.
Tổng Thư ký Hiệp hội Phân bón Việt Nam Phùng Hà cho rằng, quy định thuế giá trị gia tăng với phân bón vô hình chung đang khiến sản phẩm phân bón Việt Nam giảm sức cạnh tranh với hàng nhập khẩu cùng loại do doanh nghiệp sản xuất phải tăng giá bán hoặc giảm lợi nhuận, làm tăng tổng mức đầu tư các dự án sản xuất phân bón mới.
Trước đó, cuối năm 2019, Hiệp hội Phân bón Việt Nam đã có kiến nghị gửi tới các bộ, ngành và Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc xem xét đưa mặt hàng phân bón vào đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng đến mức 5%.
Trong hoàn cảnh nền nông nghiệp và nông dân cả nước đang lâm vào khó khăn do dịch bệnh COVID-19, biến đổi khí hậu, hạn mặn... kéo dài như hiện nay, doanh nghiệp phân bón bày tỏ mong sớm được xem xét, sửa đổi những bất cập trong chính sách thuế giá trị gia tăng với sản xuất phân bón.
Thùy Dương
Xuất khẩu gạo: Nên vận hành theo cơ chế thị trường Theo các chuyên gia, để việc xuất khẩu gạo đạt được hiệu quả thì nên vận hành theo cơ chế thị trường và sử dụng nhiều công cụ như đánh thuế xuất khẩu gạo. Nên vận hành theo cơ chế thị trường Theo TS. Đặng Kim Sơn, Nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn (Bộ...