Bổ sung vitamin phòng còi xương cho trẻ
Để trẻ có thể tăng trưởng và phát triển chiều cao tối ưu, cùng với chế độ dinh dưỡng cân bằng, lành mạnh, việc bổ sung đầy đủ vitamin và khoáng chất, đặc biệt là vitamin D3 và K2 là cần thiết.
Vai trò của vitamin D, K
Theo TS. BS. Phan Bích Nga, Viện Dinh Dưỡng, Vitamin D đóng một vai trò quan trọng bậc nhất trong sự phát triển của xương. Thiếu vitamin D có thể ảnh hưởng đến sự hấp thu của các loại khoáng chất cần thiết đối với xương như canxi và phosphor, từ đó làm tăng nguy cơ các vấn đề liên quan đến xương như còi xương ở trẻ em, đau xương và nhuyễn xương ở người trưởng thành.
Vitamin D, K có vai trò rất lớn trong việc chống còi xương cho trẻ
Theo nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị dành cho người Việt Nam 2016, và tương tự tại Mỹ, Malaysia và Ấn Độ: trẻ dưới 1 tuổi cần bổ sung 400 IU vitamin D/ngày, trẻ 1 đến 18 tuổi cần bổ sung 600 IU vitamin D/ngày. Theo khuyến cáo của cơ quan y tế tại Anh cho trẻ từ sơ sinh đến 1 tháng tuổi nên bổ sung 300-400 IU vitamin D/ngày, trẻ từ 1 tháng đến 12 tuổi nên bổ sung từ 400-800 IU vitamin D/ngày. Anh quốc khuyến nghị liều bổ sung vitamin D tuỳ thuộc tình trạng nuôi bằng sữa mẹ hay sữa công thức.
Tại Singapore, nhu cầu vitamin D khuyến nghị cho trẻ dưới 5 tuổi và trẻ nam 5-7 tuổi là 400 IU/ngày, trẻ nữ 5-7 tuổi là 420 IU/ngày, trẻ 7-18 tuổi là 100 IU/ngày.
Vitamin K được phát hiện từ năm 1929 và đóng vai trò quan trọng trong việc tổng hợp sphingolipids – một loại lipid (chất béo) rất quan trọng trong màng các tế bào não. Vitamin K thuộc nhóm quinones, là một nhóm vitamin tan trong dầu, gồm nhiều loại vitamin có cấu trúc giống nhau: điển hình là phylloquinone (vitamin K1), menaquinones (vitamin K2) và menadion (vitamin K3).
Video đang HOT
Vai trò của các loại vitamin K: Vitamin K1 chủ yếu có trong các loại rau lá xanh và chiếm khoảng 75-90% tổng lượng vitamin K trong khẩu phần hàng ngày. Vitamin K2 tập trung ở các thực phẩm lên men và thịt động vật, ngoài ra K2 có thể được sản xuất bởi hệ vi sinh đường ruột. Vitamin K1 đóng vai trò quan trọng trong quá trình đông máu của cơ thể. Trong những năm gần đây, vitamin K2 đang được chứng minh vai trò trong duy trì mật độ khoáng chất của xương cũng như hỗ trợ phát triển chiều cao tối ưu ở trẻ em. Có 2 cơ chế đã được chứng minh trong vai trò của Vitamin K2 cho hiệu quả chắc khỏe xương:
K2 kích hoạt osteocalcin (một protein được sản xuất từ quá trình tạo cốt bào), giúp gắn canxi vào xương, từ đó làm tăng mật độ khoáng chất trong xương. Để osteocalcin phát huy được hiệu quả tối đa, cần có vitamin K2; K2 giữ cho canxi không lắng đọng tại các mạch máu và hướng đích cho canxi vào xương thông qua một loại protein điều chỉnh quá trình canxi hóa là Matrix Gla Protein (MGP). MGP là một loại protein phụ thuộc vitamin K, được các tế bào cơ trơn sản xuất và có chức năng điều chỉnh lượng canxi trong cơ thể.
Nếu không có vitamin K2, cơ thể không thể định hướng được canxi vào xương, thay vào đó, canxi có thể sẽ lắng đọng tại các mô mềm, như tại các động mạch, dẫn đến một tình trạng phối hợp giữa loãng xương và xơ vữa mạch máu, hay còn gọi là nghịch lý canxi (calcium paradox).
Nguồn thực phẩm giàu vitamin K2
Vitamin K2 tồn tại trong thực phẩm dưới 2 dạng chính là MK4 và MK7: đều rất tốt cho sức khỏe. Liều khuyến nghị vitamin K2 để đảm bảo và cải thiện sức khỏe của xương đã được nghiên cứu và công bố trong nhiều nghiên cứu quan trọng như sau:
Nghiên cứu năm 2013 tại Hà Lan sử dụng liều 180mcg vitamin K2 dưới dạng MK7/ngày; Trong sách “Vitamin K2: Chất dinh dưỡng thường bị thiếu hụt cần cho sức khoẻ xương và tim mạch -The Missing Nutrient for Heart and Bone Health” của tiến sĩ Dennis Goodman – một chuyên gia về tim mạch, đã đề xuất bổ sung 150-180mcg vitamin K2 dưới dạng MK7/ngày; Nghiên cứu của Van Summeren về việc sử dụng MK7 để hỗ trợ tăng trưởng chiều cao cho trẻ em tuổi tiền dậy đã khuyến nghị sử dụng liều 45mcg MK7/ngày trong 8 tuần.
Liều khuyến nghị vitamin K2 dưới dạng MK4 là 45mg/ngày. Do K2 dạng MK4 có thời gian bán thải ngắn hơn dạng MK7 nên có thể bổ sung MK4 3 lần/ngày. Liều khuyến nghị MK4 có sự thay đổi tùy từng khu vực địa dư. Ở một số khu vực tại châu Á, đặc biệt là tại Nhật Bản, liều khuyến nghị MK4 là 45mg. Như vậy cho đến thời điểm này chưa có khuyến nghị chính thức về liều dùng của Vitamin K2, tuy nhiên có thể thấy phần lớn các nghiên cứu đều đưa ra mức khuyến nghị với liều dùng 45mg/ ngày cho trẻ em.
MK4 là loại vitamin K2 được tìm thấy chủ yếu trong các loại thực phẩm có nguồn gốc động vật, ví dụ như bơ và lòng đỏ trứng. Trong khi đó, MK7 lại là loại vitamin K2 được sản xuất ra bởi sự lên men của vi khuẩn, có chủ yếu trong thực phẩm sữa lên men như sữa, phomai, đậu nành lên men, do vậy còn ít được sử dụng vì không phải là món ăn truyền thống, không hợp khẩu vị và chưa được biết đến nhiều ở Việt Nam.
Bổ sung phối hợp vitamin D và vitamin K2 đem lại lợi ích trong phát triển chiều cao ở trẻ em, phòng chống còi xương, tăng mật độ khoáng chất trong xương đặc biệt ở cả phụ nữ sau mãn kinh, phụ nữ cao tuổi bị Alzheimer. Không những thế, các nghiên cứu về di truyền, phân tử, tế bào và trên người đều cho thấy bổ sung đủ vitamin D và vitamin K không chi có lợi cho sức khỏe xương mà còn cho sức khỏe tim mạch nữa.
Ngoài ra, vitamin K2 còn có tác dụng trung hòa lượng vitamin D, phòng chống ngộ độc vitamin D. Trong trường hợp cơ thể bị thiếu vitamin K2, nhưng lại bổ sung quá nhiều vitamin D, cơ thể sẽ không xử lý kịp lượng vitamin D mới được bổ sung vào, dễ dẫn đến các triệu chứng ngộ độc vitamin D.
Tuyên Quang nỗ lực giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở vùng cao
Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi và suy dinh dưỡng thể nhẹ cân chiếm ở Tuyên Quang năm qua đều giảm so với năm trước.
Có được điều này là nhờ vào việc triển khai đồng bộ giải pháp, trong đó là việc tới từng nhà hướng dẫn, chế biến bữa ăn đầy đủ dinh dưỡng.
Một buổi truyền thông thực hành dinh dưỡng ở Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. Ảnh P.Thuận
Giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc, có 22 dân tộc, trong đó nhiều nhất là dân tộc Kinh 46%, Tày 26%, Dao 13%, còn lại là các dân tộc khác. Với đặc thù địa bàn rộng, việc đi lại khó khăn, người dân bận làm nương, rẫy cho nên việc chăm sóc sức khỏe của bản thân và gia đình chưa được coi trọng. Phụ nữ trong độ tuổi mang thai thường không đến trạm khám thai đủ số lần theo quy định, nhiều bà mẹ lại thiếu kiến thức chăm sóc trẻ dẫn tới trẻ bị suy dinh dưỡng và hay đau ốm.
Cùng với đó, trình độ dân trí ở đây còn thấp, có những người dân tộc còn không biết tiếng Kinh. Việc thực hiện các hoạt động y tế dự phòng nói chung, trong đó có hoạt động truyền thông về phòng chống suy dinh dưỡng, thiếu vi chất dinh dưỡng còn nhiều khó khăn.
Tuy vậy, những năm gần đây, tỷ lệ suy dinh dưỡng, thiếu vi chất dinh dưỡng ở nhóm trẻ Tuyên Quang đã giảm. Theo số liệu công bố của Viện Dinh dưỡng Quốc gia năm 2022, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi trên địa bàn tỉnh chiếm 23,5%, giảm 0,2%; tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân chiếm 12,9%, giảm 0,2 % so với năm 2021.
Tới từng nhà hướng dẫn, chế biến bữa ăn đầy đủ dinh dưỡng
Một trong những thành công trong công tác nâng cao chất lượng dân số, phòng chống suy dinh dưỡng ở Tuyên Quang là việc triển khai đồng bộ giải pháp. Trong ngày Phòng chống thiếu VCDD và phòng chống SDD ở Tuyên Quang, nhiều chị em người dân tộc được tư vấn và khám thai, đồng thời được tư vấn về chế độ ăn uống nghỉ ngơi, hướng dẫn uống viên sắt/acid folic hay sử dụng viên đa vi chất để phòng thiếu máu cho bà mẹ và thai nhi.
Ngoài ra, các bà mẹ còn tham dự buổi hướng dẫn thực hành bữa ăn bổ sung cho trẻ bằng các loại thực phẩm sẵn có tại địa phương, dưới sự hướng dẫn của các cộng tác viên dinh dưỡng. Tại đây, các bà mẹ được nghe về giá trị dinh dưỡng của 4 nhóm thực phẩm, các loại thức ăn giàu vitamin A, giàu sắt, giàu canxi, cách chế biến bữa ăn cho từng nhóm tuổi với nhiều loại thực phẩm khác nhau...
Hằng tháng nhân viên y tế thôn, bản đến từng nhà hướng dẫn, tuyên truyền vận động chị em thực hiện các phương pháp chăm sóc sức khỏe sinh sản; vận động phụ nữ mang thai tới khám thai định kỳ; tư vấn về ăn uống đủ chất cho trẻ em và phụ nữ có thai bằng các sản phẩm sẵn có tại gia đình...
Trong những buổi truyền thông về dinh dưỡng, làm mẹ an toàn hay khám sàng lọc được triển khai luôn thu hút đông đảo người dân tham gia. Chị Lầu Thị Áng, dân tộc H'Mông chia sẻ, trước chị chưa biết kết hợp những loại thực phẩm giàu dinh dưỡng cho con ăn nên con lớn bị suy dinh dưỡng nặng. Khi mang thai bé thứ 2, được cán bộ tuyên truyền về tầm quan trọng của việc chăm sóc dinh dưỡng khi có thai, kiến thức chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ... nên đã quan tâm hơn đến khám thai kỳ. Ngoài ra, gia đình cũng đã biết cách chế biến bữa ăn đầy đủ dinh dưỡng để giúp cho con phát triển khỏe mạnh.
" Để đảm bảo dinh dưỡng cho con, gia đình cũng đã bổ sung đa dạng thực phẩm từ thịt, cá, tôm, trứng, đậu đỗ, hoa quả... Cho con đi tiêm chủng đầy đủ, uống bổ sung vitamin A và thường xuyên cân, đo chiều cao cho con tại Trạm Y tế xã" - chị chia sẻ.
Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh cũng thường xuyên tổ chức các đoàn giám sát, kiểm tra cơ sở thực hiện các hoạt động chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, các hoạt động theo sự chỉ đạo của Viện Dinh dưỡng Quốc gia, như cân, đo trẻ, thực hành dinh dưỡng cho các bà mẹ nuôi con nhỏ, bà mẹ mang thai...
Đến năm 2025, tỉnh phấn đấu tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi dưới 20%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi dưới 12%, riêng tại huyện khó khăn như Na Hang và Lâm Bình dưới 16%. Tỷ lệ trẻ có cân nặng sơ sinh thấp (dưới 2.500 gram) dưới 8%.
Sự cần thiết của việc chăm sóc sức khoẻ trẻ sơ sinh Trẻ sơ sinh là trẻ từ khi lọt lòng mẹ đến 28 ngày tuổi. Trẻ sơ sinh còn yếu ớt dễ bị mắc bệnh, nếu mắc thì bệnh thường nặng và dễ tử vong. Chăm sóc trẻ sơ sinh đúng cách Ở nước ta mỗi ngày có 70 trẻ sơ sinh tử vong, trong số đó tử vong nhiều nhất là trẻ mới...