Bộ Công an vào cuộc vụ “nhiễm” HIV 10 năm mới biết không mắc bệnh
Trung tương Ta Xuân Binh – Pho tông cuc trương Tông cuc Thi hanh an hinh sư va hô trơ tư phap (Bô Công an) – mong muôn anh H.K.S gưi hô sơ thông tin vê sư viêc “nhiêm” HIV 10 năm mơi biêt không măc bênh tơi cơ quan nay đê co căn cư xư ly
Trung tâm y tê dư phong Nghê An (Anh: Hoang Lam)
Trao đôi vơi PV Dân tri sang 9/4, Trung tương Ta Xuân Binh – Pho tông cuc trương Tông cuc Thi hanh an hinh sư va hô trơ tư phap (Tông cuc VIII), Bô Công an – cho biêt ông đa năm đươc thông tin vê trương hơp anh H.K.S (tru tai thi xa Cưa Lo, Nghê An). Tuy nhiên đê co căn cư xem xet, xư ly vu viêc, Tông cuc VIII cân co đây đu hô sơ vu viêc.
“Hay noi anh ây gưi hô sơ cho Tông cuc VIII, đia chi ơ 137 Đinh Công (quân Hoang Mai, Ha Nôi) đê chung tôi co căn cư xem xet”- ông Binh noi.
Tra lơi câu hoi vê viêc cơ quan nao se bôi thương nhưng tôn thât tinh thân cho anh H.K.S khi phai mang “ban an” nhiêm HIV suôt 10 năm qua, Trung tương Ta Xuân Binh cho răng viêc nay phai trên cơ sơ ra soat ky lương lai cac quy đinh phap luât liên quan. Sau khi nghiên cưu hô sơ, Tông cuc VIII se yêu câu Trai giam sô 3 – Bô Công an bao cao lai toan bô sư viêc.
Như Dân tri đa phan anh trươc đo, vào năm 2003, anh H.K.S đang thụ án tại Trại giam số 3 – Bộ Công an, được đưa đi lấy máu xét nghiệm theo chương trình giám sát trọng điểm do Ban AIDS thực hiện. Kết quả cho thây anh H.K.S bi nhiêm HIV, được quản lý với mã số 1**8. Đên năm 2007, anh H.K.S được chuyển quản lý từ Trung tâm y tế dự phòng cho Trung tâm phòng chống HIV tỉnh Nghệ An.
Năm 2013, anh H.K.S kết thúc thời gian thi hành án và trở về địa phương, chịu sự quản lý, chăm sóc của Trạm y tế phường N.T – nơi anh S. sinh sống theo diện đối tượng nhiễm HIV.
Sau khi thấy kêt qua các đơt kiêm tra sưc khoe cua anh S. đêu binh thương, ôn đinh, Trạm trương Tram y tế phường N.T đa đăt nghi vân va tao điêu kiên để anh S. đi kiểm tra lại. Kết quả kiểm tra tại Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS và Bệnh viện Đa khoa Nghệ An đêu cho thấy bệnh nhân… âm tính với HIV. Như vậy, sau 10 năm sống chung với “bản án” tử thần này, anh S. mới phát hiện ra mình hoàn toàn khỏe mạnh.
Sau khi biết mình bị kết luận nhiễm HIV nhầm, anh S. đã có đơn gửi các cơ quan chức năng liên quan, đề nghị đền bù tổn thất về tinh thần, vật chất do rất khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm, bị kỳ thị, xa lánh sau khi kết thúc thi hành án. Thậm chí, “công cuộc” hỏi vợ của anh cũng hết sức khó khăn. Để lấy được vợ, anh S. đã phải 2 lần trình giấy kiểm tra sức khỏe cho bố vợ tương lai mới nhận được cái gật đầu.
Tuy nhiên đên nay chưa co cơ quan nao đưng ra nhân trach nhiêm bôi thương tôn thât cho anh H.K.S
Video đang HOT
Theo Dantri
Đề xuất cho quan tham chuộc mạng: Đồng tiền lại làm "quan tòa"?
Không thể tạo ra cơ chế để quan tham dùng tiền mua mạng sống, làm như thế là đi ngược lại với quyết tâm phòng, chống tham nhũng của cả hệ thống chính trị.
Trên số báo hôm qua (1-4), chúng tôi đã đề cập đến một quy định trong dự thảo BLHS sửa đổi rất lạ. Theo đó, điều luật cho phép người bị kết án tử hình, trong đó có quan chức phạm tội tham nhũng, được dùng tiền để mua mạng sống của mình nhằm thoát án tử.
Sau khi báo đăng, chúng tôi nhận được nhiều ý kiến phản đối của bạn đọc, trong đó có nhiều chuyên gia pháp luật. Dưới đây là những ý kiến tiêu biểu.
Đừng để "cứ có tiền là thoát án tử"
Khi xử tử hình, người ta đã xem rồi, trình tự thủ tục đã ổn cả rồi. Đáng tử hình hay không do tòa án tuyên. Sau đó, án có hiệu lực pháp luật thì chánh án TAND Tối cao, viện trưởng VKSND Tối cao xem xét lại một lần nữa để xác định có sai hay không, có kháng nghị giám đốc thẩm hay không. Bước tiếp theo là trình Chủ tịch nước ân giảm. Khi Chủ tịch nước xem xét là đã xét cả việc người bị tuyên án tử hình đã bồi thường thế nào, có ăn năn hối cải hay không... Như vậy, đã có "cửa" để được xét ân giảm rồi.
Chính sách hình sự của mình đã rõ, đã đủ, không thiếu. Kể cả bị án tử hình rồi thì anh cứ bồi thường đi, Chủ tịch nước vẫn ân giảm cơ mà.
Nếu quy định như dự thảo dễ dẫn đến việc người ta hiểu nhầm rằng cứ có tiền là sẽ thoát án tử hình. Vì vậy, tôi đề nghị cân nhắc lại khoản 3 Điều 39 dự thảo BLHS (sửa đổi), nếu để thì sau này tổ chức thực hiện trong thực tế sẽ cực kỳ vướng.
Ông NGUYỄN VĂN HIỆN, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội
Không giống ai!
Theo tôi, đây là một đề xuất gây phản cảm trong xã hội, thể hiện sự lỏng lẻo của pháp luật và tạo điều kiện cho các quan tham lách luật dễ dàng. Nếu ý tưởng này được thông qua thì công cuộc phòng, chống tham nhũng của Nhà nước gặp nhiều khó khăn, mang tính nửa vời.
Chúng ta không nên quy định cứng, quy định riêng hay có chính sách đặc biệt nào cho loại tội phạm tham nhũng vì đây là loại tội cần trừng trị nghiêm khắc. Tội phạm tham nhũng có đặc điểm là gây thất thoát tài sản của Nhà nước, thậm chí là ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế chung nếu số tiền ấy đặc biệt lớn. Nếu cứ nộp lại 1/2 số tiền chiếm đoạt mà mặc nhiên được miễn tội chết thì vô lý quá vì đối với họ việc tự nguyện nộp lại tiền là điều nằm trong tầm tay. Bởi lẽ về bản chất, đó là tài sản của Nhà nước bị thất thoát chứ không phải của cá nhân họ.
Bị cáo Vũ Quốc Hảo, nguyên tổng giám đốc Công ty Cho thuê tài chính II, người từng bị án tử hình vì tham ô hàng trăm tỉ đồng tiền của Nhà nước. Ảnh: HTD
Hơn nữa, thực tế BLHS hiện hành không có sự phân biệt nào, nếu người tội phạm tham nhũng bán nhà cửa, đất đai, vàng bạc... để nộp lại thì cũng được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại Điều 46 BLHS do khắc phục hậu quả. Như vậy, luật hiện hành đã xét chứ không phải bỏ lửng vấn đề này.
Từ đó, tôi cho rằng nếu có sửa đổi thì nên quy định việc tự nguyện nộp lại toàn bộ tiền phạm tội sau khi bị kết án tử chỉ là một điều kiện để được người có thẩm quyền xem xét lại bản án. Lúc này có hai hướng để xem xét: Hoặc là người có thẩm quyền lấy đó làm cơ sở cân nhắc việc có kháng nghị bản án hay không khi vụ án có điều kiện để kháng nghị hoặc họ sẽ trình chủ tịch nước xem có được ân xá, tha tội chết hay không. Sửa theo hướng này cũng đã là "ưu ái" cho tội phạm tham nhũng rất nhiều. Nếu như đề xuất thì mục đích việc duy trì án tử hình cho tội danh về tham nhũng vô hình trung không còn nguyên hiệu quả.
Thẩm phán PHẠM CÔNG HÙNG, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM
Sao lại để đồng tiền làm "quan tòa"
Có lẽ đề xuất này xuất phát từ việc thực tiễn xét xử hiện nay cho thấy việc thu lại tài sản tham nhũng rất ít do người phạm tội tham nhũng có sẵn tâm lý "hy sinh đời bố, củng cố đời con". Nhưng đề xuất này rất bất hợp lý, nó trái với nguyên tắc xử lý hình sự hiện nay là việc định tội phải trên cơ sở pháp luật và công bằng đối với tất cả mọi loại tội phạm. Không thể tạo ra cơ chế dùng tiền để mua mạng sống, trong khi họ là người rất nhiều tiền và sẵn sàng muốn thoát án tử bằng mọi giá. Nó cũng trái với nguyên tắc độc lập xét xử của tòa, bị cáo có bị tử hình hay không phải do HĐXX quyết định sau khi xem xét toàn bộ vụ án. Nói cách khác là không nên có "phiên tòa thứ hai" để "xử lại" án của tòa mà lúc đó người ra phán quyết lại là... tờ giấy bạc.
Tôi cho rằng để tham nhũng không còn là quốc nạn thì việc xử lý vẫn phải nghiêm khắc và triệt để. Nên giữ mức hình phạt tử hình như hiện nay và siết chặt các điều kiện để buộc người phạm tội hoặc thân nhân của họ phải nộp lại tiền đã thu lợi bất chính. Hiện nay, với tội phạm tham nhũng cũng đã có một nghị quyết hướng dẫn việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ khi người phạm tội khắc phục hậu quả bằng việc bồi thường vật chất, như vậy là đã đủ, không phải sửa đổi gì thêm.
Luật sư TRƯƠNG XUÂN TÁM, Phó Chủ nhiệm Đoàn LS tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu
Lấn sân Luật Thi hành án hình sự
Việc đề xuất không thi hành án tử hình và chuyển hình phạt tử hình xuống tù chung thân trong trường hợp sau khi bị kết án tử hình, người bị kết án đã chủ động khắc phục hậu quả của tội phạm do mình gây ra, tự nguyện giao nộp cho Nhà nước ít nhất 1/2 số tiền, tài sản do phạm tội mà có là phi lôgic và vi phạm nguyên tắc pháp luật về thi hành án hình sự. Nếu như đề xuất này thành hiện thực thì quy định này đã can thiệp vào công việc của cơ quan thi hành án hình sự, vi phạm Luật Thi hành án hình sự và quy định về việc đặc xá.
Bởi về bản chất, việc nộp lại số tiền đã tham nhũng là việc chấp hành hình phạt mà tòa án đã tuyên bằng một bản án có hiệu lực pháp luật. Tức nó là nghĩa vụ mà người bị kết án phải làm chứ không phải là yếu tố để xem xét việc có giảm án hay không. Có tuyên án tử hình hay không là việc của HĐXX, được xét trong quá trình tố tụng, khi đã có bản án rồi thì mọi việc coi như khép lại, chuyển sang một giai đoạn tố tụng khác. Lúc này, việc xét có giảm án tử hay không là công việc của Hội đồng Đặc xá và Chủ tịch nước trên cơ sở pháp luật đã quy định. Không có lý do gì mà chúng ta lại tạo ra một hành lang pháp lý riêng cho tội phạm tham nhũng mà hành lang ấy lại không phù hợp với luật.
PGS-TS NGUYỄN NGỌC ĐIỆN, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế-Luật TP.HCM
Đừng tạo điều kiện cho tham nhũng nảy nở
Dự thảo BLHS (sửa đổi) cho người bị kết án tử hình được nộp tiền để chuyển từ tử hình xuống chung thân sẽ dẫn đến công tác phòng, chống tham nhũng càng khó khăn, thiếu tính răn đe. Điều này có thể dẫn đến việc nảy sinh tâm lý "hy sinh đời bố củng cố đời con", nếu bị phát hiện cùng lắm là bị chung thân (chưa nói khi thụ án sẽ còn được xem xét giảm án nữa). Người tham ô, nhận hối lộ nộp lại phần tiền bị phát hiện tham nhũng (chỉ là bề nổi), còn việc tẩu tán tài sản tham nhũng (tảng băng chìm) làm sao cơ quan chức năng phát hiện hết?
Trong khi Bộ Chính trị và Chính phủ kêu gọi phòng, chống tham nhũng bằng mọi biện pháp mạnh nhất, triệt để nhất thì việc nộp lại tiền để thoát án tử như dự thảo là điều không phù hợp. Điều này cần phải xem xét cẩn trọng, soi chiếu dưới góc độ, hệ quả sâu xa để đảm bảo công tác phòng, chống tham nhũng hiệu quả. Việc sửa đổi luật mục đích cuối cùng là để hoàn thiện một xã hội pháp quyền, thượng tôn pháp luật. Trong hoàn cảnh tham nhũng phức tạp như hiện nay, luật cần kiên quyết, cụ thể hóa các hành vi và biện pháp để thu hồi tài sản tham nhũng có hiệu quả chứ không thể tạo "điều kiện" cho tham nhũng nảy nở.
Một lãnh đạo Ban Nội chính Trung ương
"Cửa" thoát án tử của quan tham (Khoản 3) Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Người bị kết án tử hình là phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; b) Người bị kết án là người từ 70 tuổi trở lên; c) Người bị kết án không thuộc đối tượng quy định tại điểm a và b khoản này nhưng sau khi bị kết án đã chủ động khắc phục hậu quả của tội phạm do mình gây ra, tự nguyện giao nộp cho Nhà nước ít nhất một phần hai số tiền, tài sản do phạm tội mà có, hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn. (Khoản 4) Trong trường hợp quy định tại khoản 3 điều này và trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân". (Trích Điều 39 dự thảo BLHS sửa đổi)
Theo T. TÙNG - Đ. MINH - N. ĐỨC
Pháp luật TP Hồ Chí Minh
Bí thư chi đoàn giở trò với 2 em thiếu nhi Vốn là một bí thư chi đoàn phụ trách đội thiếu nhi của xóm, kỳ nghỉ hè khi tổ chức cho các cháu luyện tập, Cường đã giở trò với 2 em. Đối tượng là Nguyễn Thế Cường (28 tuổi, Diễn Đoài, Diễn Châu, Nghệ An). Hiện đang phải thi hành án tại Trại Giam số 3 - Bộ Công an (đóng tại...