Bí mật chiến thắng Điện Biên Phủ – Kỳ 1: Chuyện ‘bếp núc’ tiếp sức chiến thắng
Ông Trần Thịnh Tần năm nay 83 tuổi. Ông bước chân vào cuộc kháng chiến chống Pháp từ những ngày đầu tiên của tuổi 20. Sau chiến dịch Hòa Bình, ông lên Điện Biên Phủ, tham gia vào trận đánh lớn lịch sử khi làm việc ở Tổng cục Cung cấp (sau này là Tổng cục Hậu cần, trực thuộc Bộ Quốc phòng).
Ông Trần Thịnh Tần (83 tuổi) từng phục vụ trong chiến dịch Điện Biên Phủ – làm ở Tổng cục Cung cấp
Không trực tiếp cầm súng lao lên phía trước, nhưng những trải nghiệm và công việc của ông – như hàng chục ngàn người trẻ khác – khi đong từng lon gạo, góp từng đợt xe, đã góp phần làm nên một chiến dịch thắng lợi.
5.000 tấn gạo cho “đánh nhanh, thắng nhanh”
Ông Tần chỉ vào tấm ảnh cũ, kể: “Khi chúng tôi vào trường sĩ quan, làm gì có súng, chỉ có xài súng tre tập thay. Đi lính mà phải mang quần áo từ nhà đi. Mua thêm đôi dép cắt từ lốp cao su đi cho bền. Sau đi lính mới được 2 bộ quần áo một năm, mà quần áo lót thì chưa có. Tóm lại là mình nghèo lắm”.
Ông Trần Thịnh Tần làm ở Tổng cục Cung cấp của chiến dịch Điện Biên Phủ khi ông mới 23 tuổi. Sau Điện Biên Phủ, ông mang hàm đại tá, Cục trưởng Cục Quân trang – Tổng cục Hậu cần, làm việc cho đến khi nghỉ hưu và sống với các cháu nội ở TPHCM. Những lần quay về Điện Biên Phủ, gặp gỡ lại bạn bè, người trong cùng chiến dịch, với ông lại là một vùng kỉ niệm tuổi trẻ đáng nhớ và xúc động.
Khi ấy, 3 điểm vận tải ở đèo Cò Nòi, Lũng Lô, Pha Đin là những điểm nóng của người làm việc cung cấp, hậu cần. Ô tô chở hàng chỉ chở được 1,5 tấn, đi qua không biết bao nhiêu điểm đánh phá, đánh sập đường của Pháp. Những chiếc xe không chịu nổi đường xá, chỉ còn chở được 1 tấn hàng/chuyến.
Những người ở Tổng cục Cung cấp nghĩ ra chuyện xài đến tre, chặt ra, dằn vào gầm để chống sóc. Thùng xe cũng được phủ bởi các thanh tre chặt rải ra để đảm bảo cho hàng hóa. Xe đạp mỗi chiếc chở 1- 2 tạ.
Trên không là của Pháp, bên dưới người Việt hoạt động. Ông Tần kể: “Cứ đến 4 giờ chiều, sương mù phủ kín là mặt đường râm ran hết cả. Đi ngoài đường từ Cò Nòi lên các trọng điểm cứ nghe tiếng cười nói, đùa giỡn của những chuyến thồ hàng, mang vác. Một chặng như thế khoảng 25 km, từ 16 giờ chiều đến 10 giờ sáng là của ta, còn sau đó lại ẩn nấp”.
Sau giai đoạn chuẩn bị cho “đánh nhanh thắng nhanh” đầu tháng 1.1954, đến ngày 26.1.1954, khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp tuyên bố chuyển sang “đánh chắc thắng chắc”, hàng loạt “chuyển động” khác phải diễn ra ở hậu tuyến và trung tuyến để chuẩn bị cho một đợt chiến dịch với quy mô khác hẳn.
Ông Tần kể: “Ban đầu chỉ nghĩ chiến dịch 3 ngày nên chúng tôi chỉ chuẩn bị 4.000 – 5.000 tấn gạo. Khi thay đổi chiến lược, phải đau đầu tìm cách huy động gạo cho chiến dịch”.
… giữa trái tim nhân dân
Video đang HOT
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chuyến đi khảo sát các công việc của Tổng cục Cung Cấp. Đại tướng đang tham quan chiếc máy sấy khô khoai mì do các nhân công, thanh niên xung phong tự chế ra – Ảnh chụp lại từ tư liệu do ông Trần Thịnh Tần cung cấp
Ông Trần Thịnh Tần (thứ 2 từ phải qua), trong buổi gặp gỡ với Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Điện Biên Phủ – Ảnh chụp lại từ tư liệu do
ông Trần Thịnh Tần cung cấp
Chiếc máy ép khoai mì thành sợi như sợi mì là sáng kiến để bộ đội có thể có bữa ăn dễ chịu hơn trong hoàn cảnh thiếu thốn – Ảnh chụp lại
từ tư liệu do ông Trần Thịnh Tần cung cấp
Ông Trần Thịnh Tần trong chuyến đi trở lại thăm Điện Biên Phủ sau 55 năm chiến thắng – Ảnh chụp lại từ tư liệu do ông Trần Thịnh Tần cung cấp
“Lúc đầu chúng tôi định vận động bà con Tây Bắc khoảng 6.000 tấn thôi, vì đồng bào Tây Bắc mới giải phóng, nghèo lắm. Khi đánh Điện Biên, ở trên có chủ trương đi vận động chứ không ép buộc bà con vì dân Tây Bắc nghèo lắm. Cuối cùng, hóa ra bà con các dân tộc ủng hộ đến 10.000 tấn lúa”.
“Chiều đến cứ ra mặt đường tôi thấy đông như hội, dân công, bộ đội xay xát, hát hò như một công trường khổng lồ. Pháp đi trên không quan sát, tiếp tế bằng máy bay, còn ta ở dưới này cứ xay gạo. Đi chiến dịch mà như đi trẩy hội. Xay xát cả ngày đêm tại mặt trận như thế mới hết được 10.000 tấn lúa chứ” – ông Trần Thịnh Tần nhớ lại.
Theo ông, đồng bào Tây Bắc chỉ có lúa, không có gạo vì ở đó họ dùng cối xay nước giã suốt ngày, ăn ngày nào chỉ giã ngày đó, sàng sảy ra rồi ăn cho hôm sau. Lúc tụi tôi đi vận động, bà con nói: “Bộ đội xin gạo thì không có, nhưng lúa thì sẵn lắm”. Vậy thì mình đành lấy lúa, 10.000 tấn lúa rải rác ở các kho trong rừng”.
Các đội thanh niên xung phong và dân công hàng chục ngàn người đã gọi nhau, thu gom những người có nghề, biết đóng cối xay gạo lại. Giữa rừng, hàng trăm điểm xay xát, giã gạo lần lượt mọc lên. Mặc dù cách Điện Biên Phủ chỉ 5 – 6 km đường chim bay nhưng những công trường này là bí mật khổng lồ của chiến dịch.
Ông Tần nhớ lại: “Chiều đến cứ ra mặt đường tôi thấy đông như hội, dân công, bộ đội xay xát, hát hò như một công trường khổng lồ. Pháp đi trên không quan sát, tiếp tế bằng máy bay, còn ta ở dưới này cứ xay gạo. Đi chiến dịch mà như đi trẩy hội. Xay xát cả ngày đêm tại mặt trận như thế mới hết được 10.000 tấn lúa chứ”.
10.000 tấn lúa đã trở thành 7.000 tấn gạo cung cấp cho chiến dịch. Tình thương của người dân tộc Tây Bắc đã khiến thương vong và hiểm nguy giảm đi gấp ngàn lần.
Cứ mỗi chuyến xe 1 tấn từ Việt Bắc, Thanh Hóa đi lên, qua 600-800 km là bao nhiêu công sức, xương máu, giờ đã có hẳn những cót gạo khổng lồ nằm giữa núi, trong hẻm núi, trong rừng… của người dân tộc cho, chỉ cần tập kết lại các kho và đợi bộ đội đến giờ tới lấy.
Nỗ lực của những người ở trung tuyến, hậu tuyến, không giáp mặt đánh nhau, nhưng phải mưu mẹo, tháo vát, nghĩ ra rất nhiều thứ giúp sức cho bộ đội.
Gạo người Tây Bắc cho là gạo nếp, nấu cơm nếp ăn mãi bị nóng cổ, gạo tẻ trở thành quý hiếm, chỉ dành cho người bệnh. Lúc ấy, nhà bếp lại nghĩ ra dùng lá chuối quây nồi cơm lại thành cái chõ đồ xôi giống nhà đồng bào, nếp nấu ra ăn ngon hơn hẳn và không bị nóng rát cổ nữa.
Khoai sắn có trong kho, người của Tổng cục Cung cấp phải nghĩ ra máy sấy khoai mì cho khô để cho bộ đội có lương khô ăn dần trên đường đi. Xong máy sấy, người của ông Tần lại phải nghĩ ra máy ép sợi, biến khoai mì thành sợi như mì gói bây giờ, xong sấy khô qua lò, khi ăn chỉ cần chan nước vào là ăn được.
Cái đói khổ, nghèo nàn vây lấy chiến dịch, nhưng những con người quen chịu khổ, quen suy nghĩ lại tìm được cách để tồn tại trong sự khắc nghiệt lớn nhất.
Ở Tây Bắc hồi ấy, có nhiều chỗ là “quán tự giác”, bà con dân tộc để chuối, xôi, đồ ăn ra ngoài rìa đường, ai đi ngang qua ăn thoải mái, ăn xong thì cứ trả tiền theo ý mình thích, chẳng ai lấy cắp của nhau.
Ông Tần kể: “Bộ đội chúng tôi đến ngủ nhờ lúc nào bà con cũng có chỗ, trên vách lúc nào cũng có sẵn 3 cái “típ” (giỏ) xôi, có nắp đậy, tụi tôi đến là được có ăn. Bộ đội với bà con thân thuộc như người nhà vậy. Mỗi khi tụi tôi bị sốt rét, lại xin vào nhà bà con dân tộc ngủ. Bà con chăm sóc chu đáo, dùng lá thuốc cứu chữa bệnh sốt rét, chứ họ đâu có thuốc tây gì đâu, có gì ngon cũng moi ra cho người ốm ăn. Họ không giàu có gì nhưng hết lòng giúp đỡ”.
Những chuyện “bếp núc” hết chiến dịch thì cũng xong. Hàng chục ngàn dân công và thanh niên xung phong khi ấy đã là “cái giá đỡ” sức bền cho bộ đội trong chiến dịch. (còn tiếp)
Theo TNO
Điện Biên Phủ chính thức có đường mang tên Đại tướng
Sáng 25/4, UBND TP Điện Biên Phủ phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng Văn phòng UBND tỉnh Điện Biên tổ chức Lễ công bố quyết định đặt tên Đường Võ Nguyên Giáp và Quảng trường 7/5.
Dự buổi lễ có lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND, HĐND, MTTQ và đại diện các tổ chức chính trị xã hội tỉnh Điện Biên; đại biểu quận Ba Đình (TP. Hà Nội). Cùng dự buổi lễ có bà Võ Hạnh Phúc và ông Võ Hồng Nam (con Đại tướng Võ Nguyên Giáp) cùng một số người thân. Đông đảo nhân dân các dân tộc tỉnh Điện Biên cũng đã đến chứng kiến buổi lễ.
Ông Nguyễn Văn Dự, Chủ tịch UBND TP Điện Biên Phủ phát biểu
Phát biểu trước khi công bố hai quyết định, đồng chí Nguyễn Văn Dự, Chủ tịch UBND TP Điện Biên Phủ khẳng định, việc đổi tên Đường 7-5, trục lộ chính của TP Điện Biên Phủ thành Đường Võ Nguyên Giáp và Hội trường Trung tâm hội nghị văn hóa thành Quảng trường 7-5 rất có ý nghĩa; là nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân các dân tộc TP Điện Biên Phủ và tỉnh Điện Biên; thể hiện lòng biết ơn với công lao to lớn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. "Thay mặt đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc TP Điện Biên Phủ, chúng tôi xin hứa sẽ đem hết khả năng, trách nhiệm, khai thác, sử dụng và bảo quản, giữ gìn hai công trình này bền, đẹp, xứng với niềm tin mà Tỉnh ủy, UBND và nhân dân các dân tộc Điện Biên đã giao cho", đồng chí Nguyễn Văn Dự cho biết.
Đồng chí Trần Thanh Hà, Chánh văn phòng UBND tỉnh Điện Biên đã công bố Quyết định
Được sự ủy quyền của UBND tỉnh Điện Biên, đồng chí Trần Thanh Hà, Chánh văn phòng UBND tỉnh Điện Biên đã công bố Quyết định số 05/2014-UBND về việc đổi tên Đường 7-5 thành Đường Võ Nguyên Giáp và Quyết định số 06/2014-UBND về việc đổi tên Quảng trường trung tâm hội nghị văn hóa thành Quảng trường 7-5.
Ông Võ Hồng Nam, con trai của Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu ý kiến
Đường Võ Nguyên Giáp ở TP Điện Biên Phủ có chiều dài gần 7km, mặt đường rộng 32m. Điểm đầu của đường được tính từ cầu Huổi Phạ - lý trình 71 286 và điểm cuối của con đường là cầu bê tông giáp ranh với huyện Điện Biên - lý trình 78 251,4. Con đường này đi qua các phường Him Lam, Tân Thanh, Mường Thanh của TP Điện Biên Phủ, nơi từng diễn ra các trận chiến đấu ác liệt trong Chiến dịch Điện Biên Phủ khi xưa, và nằm song trùng với Quốc lộ 279 đi thẳng lên cửa khẩu quốc tế Tây Trang. Trước đó, thể theo nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân các dân tộc Điện Biên, ngày 1-4, kỳ họp thứ 10 của HĐND tỉnh Điện Biên (khóa XIII) đã thông qua Nghị quyết của UBND tỉnh Điện Biên về việc này.
Các đại biểu thực hiện nghi lễ sau khi công bố quyết định.
Ông Võ Hồng Nam đã xúc động khi nói lời cảm ơn tấm lòng tri ân đặc biệt của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân các dân tộc Điện Biên với Đại tướng Võ Nguyên Giáp và hàng nghìn liệt sĩ đã hy sinh để Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Ông Nam cho rằng, việc làm này càng có ý nghĩa hơn khi được tổ chức vào đúng dịp kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Tiếp đó, ông Võ Hồng Nam đã nhắc lại lời căn dặn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với Đảng bộ, chính quyền, nhân dân các dân tộc tỉnh Điện Biên trong dịp kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (4-2004). Đại tướng mong muốn các cấp, ngành và nhân dân các dân tộc Điện Biên đoàn kết, kế thừa và phát huy truyền thống anh hùng cách mạng, giữ gìn các di tích lịch sử trong Chiến dịch Điện Biên Phủ để giáo dục cho con cháu đời sau. "Cha tôi và những đồng đội đã ngã xuống cùng các cựu chiến binh đã thực hiện trọn vẹn Mười lời thề quân nhân", ông Võ Hồng Nam khẳng định.
(QĐND)
Theo_VnMedia
Phó Chủ tịch nước dâng hương tưởng niệm các liệt sĩ Điện Biên Chiều ngày 24/4, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan cùng đại diện các cơ quan trung ương và Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Điện Biên đã dâng hương tưởng niệm, tri ân anh linh các anh hùng liệt sĩ chiến sĩ Điện Biên tại Nghĩa trang A1. Nằm trong chuỗi các hoạt động hướng đến lễ kỷ niệm 60 chiến thắng lịch sử...