Bí ẩn Hội Tam hoàng – Sự hình thành của tổ chức tội phạm hàng đầu thế giới
Hội Tam hoàng đã tồn tại ở Trung Quốc trong nhiều thế kỷ và đến nay vẫn là một trong những tổ chức tội phạm nguy hiểm nhất, phức tạp nhất trên thế giới.
Nhiều ý kiến cho rằng Hội Tam hoàng ngườiTrung Quốc đã khiến băng nhóm mafia khét tiếng Sicilian chỉ giống như những tên nghiệp dư trong thế giới tội phạm.
Lịch sử Hội Tam hoàng
Là chủ đề của hàng ngàn bộ phim, Hội Tam hoàng không chỉ khiến người khác tò mò mà còn là nỗi khiếp sợ của người dân và cả lực lượng thực thi pháp luật trên khắp thế giới. Tổ chức tội phạm bao gồm nhiều hội kín này gây chú ý trước hết bởi tính bí mật và sau đó là rất nhiều các hoạt động phi pháp từ Đông sang Tây.
Hội kín đầu tiên được hình thành ở Trung Quốc được ghi nhận vào thế kỷ thứ 9 sau Công nguyên, là nhóm tự xưng là Lông mày Đỏ. Sở dĩ nhóm này tự nhận như vậy vì họ thường xuyên kẻ chì đỏ lên lông mày vì tin rằng “những con quỷ có mí mắt màu đỏ”, đồng thời cũng để đối thủ sợ hãi về vẻ bề ngoài của họ hơn.
Trước sự hoành hành của nhóm này, triều đình nhà Hán đã tìm mọi cách để tiêu diệt các thành viên của tổ chức Lông mày Đỏ, bao gồm việc cho binh lính kẻ lông mày đỏ để trà trộn vào hàng ngũ những thành viên của nhóm này, hòng gây chia rẽ và tiêu diệt nhóm.
Tuy nhiên, hầu hết các băng nhóm thuộc Hội Tam hoàng hiện nay được hình thành vào thế kỷ thứ 18 hoặc 19, dưới triều đại cuối cùng của Trung Quốc là triều nhà Thanh (tồn tại từ năm 1644 đến 1911). Những người Mãn Châu (phía Bắc Trung Quốc) lợi dụng lúc triều đình nhà Minh mục nát, suy yếu nên đã kéo quân trấn áp và lập nên triều đại nhà Thanh.
Dưới thời hoàng đế thứ 2 của triều Thanh là Khang Hy, những hội kín và các tổ chức tôn giáo như đạo Phật và Đạo giáo bị xếp vào những nhóm ngoài vòng pháp luật và những cơ sở của các tổ chức này liên tục bị trấn áp, đóng cửa. Tuy nhiên, cuộc trấn áp của hoàng đế nhà Thanh khiến các hội kín ở Trung Quốc đi vào hoạt động ngầm.
Một trong những hội như vậy là Hồng Môn hội – thường được gọi là Thiên Địa hội để tránh bị cấm ở Trung Quốc. Thành viên của Hội Tam hoàng nói rằng tổ chức này được hình thành vào thế kỷ thứ 17, sau sự kiện triều đình Mãn Thanh đốt chùa Thiếu Lâm ở phía Nam Trung Quốc.
Sau sự kiện này, 5 người sống sót đã thành lập Hội Tam hoàng, với tên ban đầu là Thiên Địa hội. Hội này gắn với màu đỏ và cái tên “Hồng” vì đây là một phần niên hiệu Hồng Vũ khi triều đại nhà Minh được thành lập và đó cũng là tên của một trong những người sáng lập Hội (Phương Đại Hồng). Thậm chí có người nói rằng một trong 5 người sáng lập Hội Tam hoàng là Chí Thiện Thiền sư – bậc thầy của 5 vị trưởng lão của môn phái kungfu phía Nam Trung Quốc.
Hội này tuyên bố được hình thành và tồn tại nhằm cải cách đạo đức, thi hành niềm tin tôn giáo và khuyến khích chủ nghĩa dân tộc của người Trung Quốc. Tổ chức này có khẩu hiệu là “phản Thanh phục Minh”, đó cũng là phương châm hoạt đông của hội . Dù triều Thanh đã sát hại hàng ngàn thành viên của tổ chức này nhưng Thiên Địa hội hay Hội Tam hoàng vẫn tồn tại đến ngày nay.
Nghi lễ nhập hội
Với bản chất bí mật của mình, những thành viên khi tham gia Hội Tam hoàng phải trải qua một nghi lễ nhập hội mang tính chất đặc trưng. Nghi lễ này diễn ra trước bàn thờ nghi ngút khói hương. Người nhập hội sẽ phải cúng một vật nuôi trong nhà, có thể là gà hay dê. Sau khi uống rượu có pha với máu, người muốn nhập hội sẽ phải bước qua một thanh gươm, vừa bước qua vừa đọc lời thề của hội.
Lời thề này gồm 36 điều khoản, như sau khi nhập hội, thành viên phải đối xử với cha mẹ, họ hàng của người cùng hội như cha mẹ, họ hàng của mình; khi thành viên của hội gặp khó khăn phải ngay lập tức giúp đỡ… “Nếu tôi, với tư cách một thành viên tương lai của tổ chức này vi phạm lời thề, những thanh gươm sẽ giáng xuống và giết chết tôi” – lời thề nêu rõ.
Tờ giấy ghi những lời thề sau đó sẽ được đốt cháy trước bàn thờ để xác nhận những nghĩa vụ mà thành viên mới sẽ phải thực hiện. Theo ý nghĩa tên của hội, ứng viên cũng sẽ giơ 3 ngón tay ở bàn tay trái lên trời như một cử chỉ bí mật và mang tính ràng buộc.
Với những người không tuân thủ lời thề, hậu quả đương nhiên sẽ là cái chết, với phương thức có thể là bị cứa đến 100 nhát trên người, hay bị các thành viên khác phục kích và tấn công. Những thành viên của hội Tam hoàng ở Hong Kong thích dùng dao phay hoặc rựa để “xử” đồng đảng vi phạm lời thề. Trong khi đó, các nhóm Tam hoàng ở nước ngoài có thể dùng súng, vũ khí tự động hay thuốc nổ.
Lúc mới thành lập, người đứng đầu Thiên Địa hội được gọi là Tổng đàn chủ. Dưới Tổng đàn chủ có Tiền ngũ phòng và Hậu ngũ phòng, mỗi phòng này chịu trách nhiệm giám sát các hoạt động của các thành viên ở một tỉnh.
Theo sự phân công của Tổng đàn chủ, Tiền ngũ phòng lo việc ngoại giao, kinh tế. Trong tiền ngũ phòng có “Hoạt vụ Phòng” được giao nhiệm vụ ám sát các quan chức Mãn Thanh, phục kích những đoàn xe chở vũ khí, lương thực của triều đình để tiêu diệt binh lính và cướp những tài sản đó.
Hậu ngũ phòng được giao cho việc thông tin liên lạc, tuyển mộ thành viên mới cùng những hoạt động như phổ biến chủ trương, chính sách của Thiên Địa hội đến các nhóm thuộc Thiên Địa hội, được gọi là các “Đàn”. Những đàn này do những Sơn chủ và Phó sơn chủ đứng đầu, chịu trách nhiệm bao quát hoạt động của các thành viên thuộc “Đàn” của mình.
Video đang HOT
Bắt giữ đối tượng bị tình nghi thành viên của Hội Tam hoàng
Dưới trướng các Sơn chủ là bộ máy giúp việc được tổ chức tương đối bài bản, chặt chẽ, bao gồm những người lo những công việc quan trọng như tổ chức các hoạt động của “Đàn”, tham mưu cho các Sơn chủ, liên lạc với các thành viên trong “Đàn” và cấp trên, kết nạp thành viên mới… Tuy nhiên, trên thực tế, theo nhiều ghi chép, các băng nhóm Tam hoàng có sự tự chủ tương đối cao.
Dù có hệ thống phân cấp lãnh đạo nhưng những người ở cấp thấp trong thang bậc của tổ chức này vẫn có sự tự do khi hoạt động hơn so với nhiều tổ chức tội phạm khác trên thế giới. Hoạt động của các băng nhóm nhỏ hơn của hội này cũng hiếm khi chịu sự chỉ đạo của các lãnh đạo của hội Tam hoàng. Các thành viên cũng thường không phải xin phép người đứng đầu khi tham gia một hoạt động phạm tội nào đó.
Do tính chất bí mật của hội nên những thành viên của Thiên Địa hội đã nghĩ ra cách dùng các ám hiệu để có thể nhận ra nhau. Ví dụ, khi mời thuốc, người của Thiên Địa hội sẽ cầm tẩu bằng cả 2 tay, trong đó 2 ngón cái hướng lên, 2 ngón trỏ cũng chạm vào tẩu.
Người nhận nếu là thành viên của hội này sẽ ra mật hiệu cho đồng đảng bằng cách cũng đưa 2 tay ra nhận, đồng thời gí ngón tay cái của mình vào ngón tay của người đưa tẩu thuốc ra mời. Còn nếu mời ăn, ám hiệu thường là người mời đặt đũa nằm ngang trên các đầu ngón tay xoè ra để mời, còn người khách sẽ không đưa tay ra nhận đũa luôn mà đẩy bát ăn của họ ra xa rồi mới nhận.
Hội Tam hoàng hiện nay
Sau khi triều nhà Thanh sụp đổ, Hội Tam hoàng rơi vào “rắn không đầu” và tách ra làm nhiều nhóm khác nhau. Những nhóm ở Trung Quốc chuyển sang hoạt động tội phạm vì không thể trở lại cuộc sống bình thường sau nhiều năm sống lẩn trốn. Một số nhóm chuyển ra nước ngoài và cũng tham gia vào các hoạt động phạm tội ở các địa bàn này. Cho đến nay, những nhóm thuộc Hội Tam hoàng vẫn tiếp tục phát triển trên thế giới với số thành viên lên đến hàng trăm ngàn người.
(Còn nữa)
Thanh Mai – Tuệ Anh
Theo Pháp luật Bốn phương
Bí ẩn hơn 500 năm của Tử Cấm Thành: Có 1 cung điện không ai dám đến ở, thường xảy ra bi kịch
Dưới nhà Thanh, cung điện đặc biệt này được dùng làm nơi tế tự và phòng tân hôn của hoàng đế.
Khôn Ninh cung trong Tử Cấm Thành là tẩm cung của hoàng hậu dưới các triều Minh-Thanh, đồng thời cũng là phòng tân hôn của hoàng đế và hoàng hậu.
Với vai trò là chính cung của hoàng hậu, trong hơn 500 năm lịch sử của hai triều đại Minh-Thanh nhưng hoàng đế và hoàng hậu thành hôn ở Khôn Ninh cung lại đều không có được cuộc hôn nhân viên mãn. Khôn Ninh cung - ngụ ý bình yên an khang - tại sao lại không có nấy một ngày yên ổn?
Cung điện 'chôn vùi' thanh xuân của các hoàng hậu triều Minh
Vị hoàng hậu đầu tiên thành hôn ở Khôn Ninh cung là hoàng hậu của hoàng đế thứ sáu triều Minh - Minh Anh Tông Chu Kỳ Trấn, tức Tiền hoàng hậu. Chu Kỳ Trấn bắt đầu kế thừa hoàng vị năm lên 8 tuổi, Thái Hoàng thái hậu cũng vì thế mà sớm tuyển một thiếu nữ họ Tiền, trở thành hoàng hậu của Chu Kỳ Trấn.
7 năm sau, tức năm 1442, Tiền thị được sắc phong hoàng hậu. Minh Anh Tông và Tiền hoàng hậu chính là đôi phu thê đầu tiên tổ chức hôn lễ ở Khôn Ninh cung trong lịch sử triều Minh.
Cuộc sống sau hôn nhân của hoàng đế Minh Anh Tông được coi là viên mãn nhưng cùng lúc đó là các cuộc nổi dậy ở ngoài biên cương. Hơn 20 tuổi, Minh Anh Tông đích thân cầm quân ra trận. Nhưng điều không ngờ nhất chính là, Minh Anh Tông cầm quân Bắc phạt chưa được bao lâu thì Tiền hoàng hậu ở kinh thành đã nhận được tin dữ.
Vào một ngày, vài đại thần hoảng hốt chạy vào cung, tấu với Tiền hoàng hậu rằng, hoàng đế đã bị quân địch bắt giữ. Hóa ra, Minh Anh Tông trúng kế của đối phương trên chiến trường và bị bắt làm tù binh.
Minh sử hậu phi truyện kể rằng, trong thời gian Minh Anh Tông bị bắt giữ làm tù binh, Tiền hoàng hậu ngày đêm gào khóc thương tâm khiến một bên mắt bị hỏng, lại vì ngồi lâu trên đất lạnh trong Khôn Ninh cung khiến một bên xương đùi bị tổn thương dẫn đến việc đi lại vô cùng khó khăn.
Khôn Ninh cung vốn là tẩm cung của hoàng hậu nhưng sau đó nó chỉ có chức năng là phòng tân hôn của hoàng đế và hoàng hậu. Ảnh tư liệu
"Minh Anh Tông sau khi bị bắt làm tù binh, Tiền hoàng hậu vô cùng lo lắng. Bà cho rằng, có thể dùng tiền bạc để chuộc hoàng đế về nên đã đưa hết số bạc vàng mà bà có thể thu thập được trong cung cho Ngõa Lạt nhờ ông này chuyển cho Dã Tiên. Nhưng thực tế Dã Tiên lại coi Minh Anh Tông là quân bài chính trị nên không vì chút đỉnh vàng bạc mà cho chuộc về.
Nhưng trong cung cũng không thể một ngày không có vua, sau khi Minh Anh Tông bị bắt làm tù binh, rất nhanh dưới sự hỗ trợ của nhóm Vu Khiêm, em trai ông đã lên kế vị, tức Minh Đại Tông - Cảnh Thái hoàng đế.
Lúc này, Dã Tiên nhận thấy, triều Minh đã có hoàng đế mới, ý nghĩa chính trị của Minh Anh Tông trong tay ông ta không còn nữa nên mới thả cho về", ông Tề Cát Tường, chuyên gia nghiên cứu thuộc Viện bảo tàng quốc gia Trung Quốc nói.
Chu Kỳ Trấn trở về Tử Cấm Thành không những không được chào đón mà còn bị Minh Đại Tông giam lỏng. Lúc này bên cạnh ông chỉ còn hoàng hậu tàn tật nhưng trung thành, ngày ngày nhờ người đưa đồ bà tự thêu ra ngoài bán đổi chút sinh hoạt phí. Vợ chồng cựu hoàng đế nhà Minh trải qua 7 năm nhẫn nhịn như thế.
Bất ngờ, sau 7 năm này, cựu hoàng giành lại hoàng vị nhưng ông cũng chỉ ở ngôi được 8 năm thì mất, để lại Tiền hoàng hậu cô quạnh suốt quãng đời còn lại.
Tiền hoàng hậu là chính cung hoàng hậu đầu tiên được rước bằng kiệu hoa vào Khôn Ninh cung nhưng cuộc đời bà lại liên tiếp gặp nhiều bất hạnh.
Sóng gió theo sát vị hoàng hậu đầu tiên thành hôn ở Khôn Ninh cho đến vị hoàng hậu cuối cùng triều Minh Chu hoàng hậu. Chu hoàng hậu sau này đã tự sát ở chính Khôn Ninh Cung khi Lý Tự Thành tiếp cận kinh thành, yêu cầu hoàng đế Sùng Trinh đầu hàng.
Bi kịch "tứ bất" tiêu biểu nhất của hoàng hậu triều Thanh
Số phận các hoàng hậu triều Minh đều vô cùng bi thảm, vậy cuộc sống của các hoàng hậu triều Thanh ở Khôn Ninh cung thì như thế nào?
Khôn Ninh cung là chính cung của hoàng hậu, nhưng thực tế chỉ có hoàng hậu nhà Minh mới thực sự sống ở Khôn Ninh cung, trong khi phần lớn các hoàng hậu nhà Thanh đều sống ở khu vực Đông Tây lục cung.
Hoàng đế và hoàng hậu triều Thanh chỉ ở Khôn Ninh cung đúng một đêm vào hôm động phòng hoa chúc.
Vậy hôn lễ hoàng gia được tiến hành cụ thể như thế nào? Theo Sách điển lễ đại hôn hoàng đế Quang Tự, quy trình tổ chức hôn lễ cho hoàng đế Đại Thanh thực ra không quá cầu kỳ. Hôn nhân của hoàng đế Quang Tự là cuộc hôn nhân bất hạnh tiêu biểu nhất của các hoàng đế Minh-Thanh.
"Hoàng đế nhà Thanh thường kết hôn bắt đầu từ 14 tuổi nhưng hôn sự của hoàng đế Quang Tự lại liên tục bị trì hoãn đến năm ông 19 tuổi. Chính thất của ông chính là (Diệp Hách) Na Lạp thị, lớn hơn ông ba tuổi.
Na Lạp thị vốn không phải ý trung nhân của ông nhưng dưới sức ép của Từ Hy Thái Hậu, ông đã lập Na Lạp thị làm hoàng hậu", chuyên gia Tề Cát Tường cho biết.
Theo lịch sử Trung Quốc, lễ đại hôn của Quang Tự suýt không thành vì một vụ hỏa hoạn bất ngờ phát sinh.
Vào đêm 15/12 năm Quang Tự thứ 14, tức đêm 16/1/1889, Tử Cấm Thành đột nhiên xảy ra vụ hỏa hoạn lớn khiến Thái Hòa Môn trước điện Thái Hòa bị bén lửa và bị thiêu rụi.
"Hoàng hậu vào ngày đại hôn sẽ được đưa từ phía Nam sang phía Bắc và lần lượt đi qua năm cửa lớn. Đó chính là Đại Thanh Môn, Thiên An Môn, Đoan Môn, Ngọ Môn và cuối cùng là Thái Hòa Môn.
Vụ hỏa hoạn xảy ra vào đêm 15/12 âm lịch trong khi hôn lễ của Quang Tự được định vào ngày 27 tháng giêng, tức chỉ còn cách hơn 40 ngày. Muốn tu sửa một cửa lớn như thế thì dù đẩy nhanh tiến độ như thế nào cũng không thể kịp ngày hôn lễ. Nhưng kiệu hoa lại không thể không đi qua cửa này.
Người trong cung lúc này rơi vào tình huống cái khó ló cái khôn nên đã dùng giấy dựng lên một cửa lớn ngay tại nền đất Thái Hòa Môn - vốn bị thiêu rụi, cho nên cửa được dùng giấy đắp có thể đại diện cho kiến trúc cũ", ông Tề nói.
Hôn lễ của hoàng đế Quang Tự là hôn lễ long trọng nhất, danh tiếng vang dội nhất trong các hôn lễ của hoàng đế hai triều Minh-Thanh. Tuy nhiên, hôn lễ của Quang Tự lại được coi là bi kịch "tứ bất" (bốn không) nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc.
Trong tứ bất thì có tới ba điều liên quan tới Khôn Ninh cung. Điều này có nghĩa là gì?
Tứ bất này chính là ăn mỳ trường thọ nhưng không trường thọ, dùng cơm đoàn viên nhưng không đoàn viên, bức màn trăm trẻ nhưng không sinh con, tặng vàng như ý nhưng không như ý.
Ba trong bốn điều trên lại là nghi thức được thực hiện trong lễ đại hôn của hoàng đế ở Khôn Ninh cung.
Dưới thời Thanh, ngoài chức năng là phòng tân hôn của hoàng đế, Khôn Ninh cung trở thành nơi tế tự và không ai dám đến ở. Ảnh tư liệu
Ăn mỳ trường thọ nhưng không trường thọ tức trong ngày đại hôn, hoàng đế và hoàng hậu khi thực hiện nghi thức hợp cẩn ở Khôn Ninh cung sẽ cùng ăn một bát mỳ tượng trưng cho sự trường thọ an khang. Tuy nhiên, hoàng đế Quang Tự chỉ sống được 38 tuổi, hoàng hậu của ông cũng chỉ sống được đến năm 46 tuổi.
Dùng cơm đoàn viên nhưng không đoàn viên tức vào ngày thứ hai sau lễ thành hôn, hoàng đế và hậu dùng bữa cơm đầu tiên ở Khôn Ninh cung, tượng trưng cuộc sống vợ chồng hạnh phúc viên mãn.
Tuy nhiên, do Quang Tự vốn không bằng lòng với vị hoàng hậu bị ép cưới này nên cuộc sống hôn nhân của ông cũng không thể thuận chèo xuôi mái.
Bức màn trăm trẻ nhưng không sinh con tức trên giường tân hôn ở Khôn Ninh cung treo bức tranh thêu 100 bé trai hoạt bát, đáng yêu với nhiều dáng vẻ khác nhau, ngụ ý hoàng thất nhà Thanh nhiều con nhiều phúc. Tuy nhiên, Quang Tự cho đến lúc qua đời vẫn không để lại một tử tôn nào.
"Khôn Ninh cung vốn được kỳ vọng là nơi yên ổn thái bình nhưng kể từ khi nhà Thanh tiến vào Bắc Kinh thì 10 vị hoàng hậu đầu tiên của triều này đều phải trải qua cuộc đời sóng gió. Có người thì mất sớm, có người do xúc phạm hoàng đế nên bị phế truất, có người thì sống cô quạnh do hoàng đế qua đời sớm, có người bị đẩy vào lãnh cung, thậm chí tự sát. Có thể nói, hoàng hậu của Quang Tự chỉ là một đại diện tiêu biểu nhất trong số các hoàng hậu có chung số phận bi kịch ở Khôn Ninh cung", chuyên gia Trung Quốc nhận định.
Trên thực tế, 28 vị hoàng hậu đầu tiên của hai triều Minh-Thanh đều không có cuộc sống bình yên khi sống ở Khôn Ninh cung. Sự an khang bình yên họ mong muốn khi ở Khôn Ninh cung đều không trở thành hiện thực.
Điều này giải thích cho lý do vì sao trong hơn 900 cung điện ở Cố Cung (theo thống kê của Nhà xuất bản du lịch Trung Quốc) nhưng chỉ có Khôn Ninh cung là không ai dám ở.
Sau này, ngoài để bố trí phòng tân hôn của hoàng đế thì Khôn Ninh cung chính là một trong những nơi có tần sần suất diễn ra các sự kiến tế lễ thần linh, tổ tiên nhiều nhất trong Cố Cung.
Theo phong tục của người Mãn, hoàng thất nhà Thanh đã tổ chức hàng trăm lễ tế lớn nhỏ hàng năm, đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng do hoàng hậu đảm nhiệm và rất nhiều lễ tế này được tiến hành ở Khôn Ninh cung.
Nguồn: Phim tài liệu Đi tìm bí mật Tử Cấm Thành, Đài truyền hình trung ương TQ
Theo Helino
Bí ẩn về ngôi mộ thật của Gia Cát Lượng: Lời giải ẩn trong bức họa 200 tuổi Hiện nay, có hai ngôi mộ nằm cách nhau khoảng 100m đều được cho là nơi yên nghỉ của Gia Cát Lượng. Vậy đâu mới là mộ thật của chính trị gia nổi tiếng thời Tam Quốc? Ảnh minh họa Sau khi Gia Cát Lượng mất, được hậu chủ Lưu Thiện phong là Trung Vũ Hầu nên mộ của Gia Cát Lượng còn...