Bẫy nhập khẩu gạo từ Trung Quốc
Hai năm qua, Trung Quốc trở thành thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất từ Việt Nam với trên 30% tổng sản lượng. Thực tế này dẫn đến sự phụ thuộc quá lớn và tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho lúa gạo trong nước.
Việt Nam đang bán rẻ tài nguyên gạo cho TQ – Ảnh: Chí Nhân
Năm 2011, xuất khẩu gạo của Việt Nam (VN) sang Trung Quốc (TQ) chỉ khoảng 250.000 tấn nhưng từ năm 2012 đến nay, TQ đẩy mạnh nhập trên 2 triệu tấn mỗi năm (theo đường chính ngạch), khoảng 1 triệu tấn theo đường tiểu ngạch. Nhiều doanh nghiệp xem đó như một chiếc phao cứu thị trường lúa gạo èo uột trong nước. Tuy nhiên, lý do tăng nhập khẩu gạo từ VN của TQ ẩn chứa hậu quả khôn lường cho phía VN.
Khai thác tài nguyên giá rẻ
Theo phân tích của chuyên gia Nguyễn Đình Bích, TQ tăng nhập gạo không phải vì thiếu gạo. Dự trữ gạo của nước này hiện lên tới 117 ngày so với mức trung bình 71 ngày của thế giới. Giá gạo bán lẻ tại 50 thành phố lớn của TQ tăng từ 570 USD/tấn hồi năm 2009 lên tới 970 USD/tấn trong những tháng đầu năm nay. Trong khi đó họ nhập gạo từ VN chỉ với giá từ 431 – 419 USD/tấn. So với Thái Lan, giá gạo VN rẻ hơn và chi phí vận chuyển cũng thấp hơn khoảng 10 USD/tấn. Theo dự báo của các tổ chức lương thực lớn trên thế giới, năm nay TQ sẽ tiếp tục nhập khẩu khoảng trên 3 triệu tấn gạo. Trong số đó, nhiều khả năng có trên 2 triệu tấn nhập từ VN.
An ninh lương thực là vấn đề mà nhà nước nào cũng phải đặt lên hàng đầu vì vậy vấn đề là cách thức chúng ta làm như thế nào để thuyết phục được họ ký hợp đồng dài hạn với ta
Tiến sĩ Dương Văn Ni,
Trường đại học Cần Thơ
Video đang HOT
Giám đốc Công ty nông nghiệp Cờ Đỏ (Cần Thơ) Hồ Minh Khải cho rằng, việc chúng ta quá chú trọng vào số lượng đã trở thành điểm yếu để TQ khai thác trong mấy năm qua. Chúng ta đẩy mạnh tăng vụ, khai thác tài nguyên quá mức nhưng nông dân không được lợi, do được mùa thì thương nhân TQ tìm cách làm giá để trục lợi. Người TQ vào tận đồng ruộng, nắm lịch thời vụ, tình hình thị trường… còn rõ hơn cả người VN. Từ đó ép giá, mua rẻ.
Nhưng rủi ro lớn nhất là TQ có thể ngưng mua bất cứ lúc nào. Vì như đã nói, họ tăng cường nhập khẩu gạo của VN không phải vì thiếu lúa gạo mà chỉ là “khai thác tài nguyên giá rẻ”. Nếu họ ngưng đột ngột như cách vẫn làm với nhiều loại nông sản khác, chúng ta sẽ cực kỳ rủi ro.
Lối thoát TPP
Theo các chuyên gia thị trường, xuất khẩu gạo đang có cơ hội lớn khi VN tham gia Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP). Bởi nhiều nước xuất khẩu gạo lớn như Thái Lan và Ấn Độ không có mặt trong sân chơi này, trong khi một số nước nhập khẩu gạo với số lượng lớn như Malaysia, Singapore, Úc… lại tham gia TPP. Có thể nói chỉ VN là nước xuất khẩu gạo trong khu vực TPP. Đây là cơ hội lớn để các DN dịch chuyển sang các thị trường ngoài TQ. Điều cốt yếu là TPP đòi hỏi cao hơn về chất lượng mà chúng ta cần phải đáp ứng mới tận dụng được lợi thế này.
TS Dương Văn Ni (Trường ĐH Cần Thơ) đưa ra một đề xuất táo bạo và cụ thể hơn. Đó là Chính phủ mạnh dạn đàm phán ký hợp đồng xuất khẩu gạo dài hạn với các khách hàng lớn. Thị trường gạo phân thành 2 nhóm chính là các nước nhập khẩu lớn như Philippines, Indonesia, Malaysia… hay các nước tiêu thụ gạo chất lượng cao như Nhật, Mỹ, Úc… Chúng ta nên đàm phán cung cấp gạo theo yêu cầu của từng thị trường cụ thể. Ví dụ như Philippines trung bình mỗi năm nhập khẩu khoảng 1 triệu tấn gạo, số lượng này chỉ cần một tỉnh ở ĐBSCL là đủ năng lực cung ứng. Chính phủ sẽ đàm phán và chọn một địa phương có sản lượng lúa gạo tương ứng để chuyên cung cấp cho thị trường này. Trong địa phương đó sẽ chọn ra một doanh nghiệp đủ năng lực có nhiệm vụ tổ chức sản xuất, thu mua lúa cho nông dân và xuất khẩu sang thị trường duy nhất đó. Ở các thị trường khó tính cũng làm theo hình thức tương tự, đáp ứng yêu cầu về chất lượng, môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm theo chuẩn của họ. Như vậy sẽ triệt tiêu được tình trạng sản xuất manh mún mỗi người một giống và cạnh tranh trong tiêu thụ, lại xây dựng được thị trường một cách bền vững.
“An ninh lương thực là vấn đề mà nhà nước nào cũng phải đặt lên hàng đầu vì vậy vấn đề là cách thức chúng ta làm như thế nào để thuyết phục được họ ký hợp đồng dài hạn với ta. Như vậy, không chỉ giải quyết bài toán của ngành lúa gạo mà thương lái TQ cũng không còn cơ hội gây rối thị trường”, TS Ni khẳng định.
Không bán rẻ tài nguyên gạo Muốn không bị phụ thuộc thì phải đa dạng hóa thị trường. Để làm được việc này phải bỏ tư duy chạy theo số lượng, chỉ nên làm 2 vụ để từng bước nâng dần chất lượng thì mới vào các thị trường khác được. Nếu chỉ làm 2 vụ nông dân không tốn nhiều chi phí đầu tư và tránh rủi ro. Doanh nghiệp có điều kiện thu mua, chế biến, dự trữ để chờ giá. Ngành nông nghiệp không bị áp lực phải tiêu thụ hết lúa hàng hóa trong dân. Chúng ta không phải bán rẻ tài nguyên lúa gạo của mình. Ông Hồ Minh Khải, Giám đốc Công ty nông nghiệp Cờ Đỏ
Nhiều nước đang quan tâm gạo VN Theo Hiệp hội Lương thực VN (VFA), sau hợp đồng 800.000 tấn với Philippines, mới đây Vinafood 2 đã ký được hợp đồng xuất khẩu 200.000 tấn gạo 5% tấm đi Malaysia. Một số khách hàng lớn khác như Indonesia hay Bangladesh cũng muốn mua gạo VN và đang tìm hiểu giá. Những tín hiệu lạc quan trên đã giúp giá gạo VN loại 5% tăng 10 USD/tấn (405 – 415 USD/tấn).
Theo TNO
Chủ động nghiên cứu biển để phát triển bền vững
Tiềm năng tài nguyên biển của Việt Nam khá phong phú và có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Chính vì vậy, việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ trong điều tra, nghiên cứu, khai thác tiềm năng biển là nhân tố quan trọng góp phần phát triển kinh tế.
Tiềm năng tài nguyên biển của Việt Nam khá phong phú và có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Chính vì vậy, việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ trong điều tra, nghiên cứu, khai thác tiềm năng biển là nhân tố quan trọng góp phần phát triển kinh tế, phòng tránh thiên tai, bảo vệ tài nguyên và môi trường, đảm bảo an ninh quốc phòng, chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển.
Khẳng định chủ quyền
Việt Nam có vị trí địa lý kinh tế - chính trị đặc biệt quan trọng ở Đông Nam Á với vùng biển trải dài và nguồn tài nguyên vô cùng phong phú. Nhiều chuyên gia nhận định, với những lợi thế và tiềm năng của biển, sự phát triển của nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tương lai gần của đất nước cần gắn liền với lợi thế và tiềm năng to lớn của biển.
Nghiên cứu khai thác tiềm năng biển nhằm mang lại lợi ích kinh tế cho đất nước. Ảnh: Duy Khương - TTXVN
Do đó, hoạt động khoa học công nghệ (KHCN) điều tra, nghiên cứu khoa học biển đóng vai trò to lớn, cung cấp các luận cứ khoa học về các điều kiện tự nhiên, tài nguyên biển, điều kiện môi trường biển... cho việc hoạch định chính sách, chiến lược và quy hoạch khai thác, sử dụng biển, đảo, góp phần tích cực phát triển kinh tế, phòng tránh thiên tai, bảo vệ tài nguyên môi trường, góp phần khẳng định chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển.
PGS.TS Trần Đức Thạnh, Viện Tài nguyên và Môi trường biển (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) cho biết: "Các kết quả nghiên cứu luôn được sử dụng làm cơ sở khoa học để đàm phán, đấu tranh phân định ranh giới trên biển và xác định chủ quyền lãnh hải, nhất là đối với vịnh Bắc Bộ, các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vùng cửa sông Bắc Luân... Các tờ bản đồ địa hình trên vùng biển Trường Sa và Hoàng Sa được biên vẽ theo phân công của tổ chức IOC/WESTPAC (Phân ban Hải dương học liên Chính phủ khu vựcTây Thái Bình Dương) góp phần khẳng định chủ quyền và ở mức độ nhất định, đó là sự công nhận quốc tế đối với các vùng biển - đảo này của Việt Nam".
Các tài liệu về hình thái địa hình, cấu trúc địa chất biển... là căn cứ khoa học quan trọng góp phần ranh giới ngoài thềm lục địa, giúp đàm phán xác định chủ quyền trên biển. Nhiều nghiên cứu đã hỗ trợ kỹ thuật, cải thiện môi trường sống của bộ đội, nhân dân trên các đảo.
Cùng đó, KHCN biển đóng góp không nhỏ cho sự phát triển kinh tế - dân sinh biển, vùng ven bờ biển và hải đảo Việt Nam. Ví dụ như ứng dụng KHCN, các đặc trưng kỹ thuật, quy phạm công trình thềm lục địa, độ an toàn và tuổ.i thọ công trình biển, khai thác và vận chuyển an toàn dầu thô; nâng cao hiệu quả đán.h bắt xa bờ, cải tạo môi trường nuôi, nhân giống và phát triển các giống loài có giá trị cao. Đặc biệt, những nghiên cứu KHCN biển giúp bảo vệ tài nguyên môi trường biển và ngăn ngừa, phòng tránh thiên tai.
Cần chú trọng đầu tư
Không thể phủ nhận những thành quả KHCN biển đã đạt được, tuy nhiên thực tế, ngành KHCN biển đang gặp không ít khó khăn và hạn chế. TS Trần Đình Lân, Viện Tài nguyên và Môi trường biển đán.h giá: "Hoạt động nghiên cứu KHCN biển còn thiếu tính chuyên nghiệp, nội dung nghiên cứu còn thiếu chiều sâu và dàn trải. Chất lượng các công trình nghiên cứu chưa đồng đều và hiệu quả ứng dụng chưa cao, không ít công trình bị lãng quên theo thời gian".
Ngoài ra, do hạn chế lớn về phương tiện và thiết bị khảo sát, kinh phí đầu tư và trình độ, kinh nghiệm mà hiện nay, các công trình nghiên cứu cho các vùng biển sâu, xa còn rất hạn chế, phần nhiều dựa vào tài liệu khảo sát của nước ngoài... Những hạn chế này không chỉ ảnh hưởng đến khả năng phát triển kinh tế, bảo vệ tài nguyên, phòng chống thiên tai mà còn hạn chế về khả năng đảm bảo chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển.
Trong hội nhập quốc tế, xây dựng và phát triển KHCN về biển Việt Nam là điều cần thiết, là động lực phát triển kinh tế biển, góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng, chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển. Để đẩy mạnh KHCN biển, đáp ứng các yêu cầu trên, cần tổng hòa rất nhiều giải pháp. Tuy nhiên, theo PGS.TS Trần Đức Thạnh: "Đến nay vẫn chưa có một chiến lược về KHCN biển nên các nhiệm vụ đặt ra chưa được định hướng rõ ràng và thiếu tính hệ thống, dễ trùng lắp; nhiều vấn đề mới và cấp thiết nhưng triển khai chậm so với yêu cầu của thực tiễn và chưa đủ năng lực để ứng phó với những tình huống bất thường hay đột xuất.
Do đó, rất cần thiết xây dựng, định hướng chiến lược KHCN biển quy mô, tạo bước phát triển cho KHCN biển tiếp cận công nghệ cao. Cùng đó là các chính sách ưu tiên về KHCN biển như chính sách sử dụng nhân lực, chính sách và cơ chế xã hội hóa nguồn tài chính; đổi mới cơ chế quản lý và hoạt động KHCN biển, trọng tâm đán.h giá kết quả nghiên cứu thông qua các sản phẩm đạt được".
Đồng thời, cấp thiết tăng cường đầu tư phương tiện, thiết bị hiện đại cho khảo sát, giám sát và nghiên cứu như thủy phi cơ, tàu lặn, công nghệ định vị; kỹ thuật tự động hóa và tin học hóa, viễn thám, hệ thông tin địa lý, kỹ thuật khảo sát ngầm...
TS.Trần Đình Lân khẳng định: "Việt Nam cần đẩy mạnh điều tra nghiên cứu và ứng dụng theo các hướng trọng điểm và ưu tiên. Thanh tra sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường biển. Gắn kết nghiên cứu KHCN biển phục vụ kinh tế - dân sinh với bảo đảm an ninh quốc phòng và chủ quyền quốc gia trên các vùng biển đảo; tận dụng và kết hợp phương tiện hải quân để nghiên cứu biển".
Đồng quan điểm, TS.Vũ Thanh Ca, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý biển và hải đảo (Bộ Tài nguyên và Môi trường) nhấn mạnh: "Việc tăng cường hợp tác quốc tế sẽ là cơ hội để chúng ta học hỏi, áp dụng những tiến bộ khoa học, công nghệ, những kiến thức, kinh nghiệm về điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học và quản lý biển tiên tiến trên thế giới vào điều kiện Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu mà chúng ta khi công bố rộng rãi, tham gia cùng các tổ chức quốc tế và khu vực cũng là những bằng chứng quan trọng giúp khẳng định với bạn bè quốc tế về các vùng biển của Việt Nam".
Theo VNE
Chuyện kỳ lạ nơi con gái xinh đẹp muốn lấy chồng phải có... răng giả Ở xóm Gò Mía thuộc xã Hòa Định Tây (huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên) không hiểu vì lý do tại sao cả trai lẫn gái, cứ lớn lên đều mắc phải chứng rụng răng. Người nào may mắn lắm thì chỉ mòn hoặc răng ngả sang màu vàng ố. Gặp người lạ, những người trong xóm rất ngại nói chuyện, bởi họ...