Băng rộng Hàn Quốc khởi đầu từ truyền hình cáp
Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) và Cơ quan thường trực Liên Hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) xếp Hàn Quốc ở vị trí đầu bảng về chỉ số kĩ thuật số, hạng 2 về chỉ số xã hội thông tin, thứ 6 về chỉ số sẵn sàng Chính phủ điện tử.
Ngoài ra, Hàn Quốc cũng nằm trong số các quốc gia Top đầu về hoạt động CNTT của Ngân hàng Thế giới (World Bank).
Phát triển mạnh thị trường băng rộng cố định
Tháng 6/2009, Hàn Quốc có 16 triệu thuê bao băng rộng cố định, tỉ lệ thâm nhập hộ gia đình lên tới 94% – một trong những tỉ lệ cao nhất thế giới. Hiện có 122 nhà cung cấp dịch vụ băng rộng cố định, bao gồm 8 nhà mạng viễn thông cố định, 114 nhà mạng và truyền hình cáp địa phương. Thị trường băng rộng cố định Hàn Quốc đã phát triển qua 4 giai đoạn: thương mại hóa dịch vụ băng rộng đầu tiên (1998-1999); số thuê bao và tỉ lệ thâm nhập hộ gia đình tăng đột biến (2000-2002); tỉ lệ thâm nhập băng rộng chậm lại và là dấu hiệu thị trường bão hòa (2003-2005); các nhà mạng triển khai thế hệ mạng cáp quang mới (2005 trở đi).
Cũng như nhiều quốc gia khác, bước phát triển ban đầu trên thị trường băng rộng cố định Hàn Quốc liên quan chặt chẽ tới truyền hình cáp. ThruNet dẫn đầu thị trường năm 1999 và cuối những năm 1990, các nhà cung cấp Internet khác như Dreamline, SKT và Onse – gia nhập thị trường thông qua cung cấp cơ sở hạ tầng cáp. Dù vậy, các nhà mạng thất bại vì không giành được nền tảng thuê bao cần thiết.
Tháng 4/1999, Hanaro gia nhập thị trường băng rộng. Hanaro Telecom (nay là SK Broadband) được thành lập tháng 9/1997 nhằm tăng thêm sự cạnh tranh cho thị trường điện thoại trong nước. Tuy nhiên, hãng nhanh chóng chuyển đổi thành nhà cung cấp dịch vụ Internet tốc độ cao tại Seoul, Busan, Incheon và Ulsan. Cuối tháng 12/2002, công ty triển khai mạng cáp quang bao phủ 100 thành phố. Hanaro cung cấp dịch vụ truy cập ADSL và modem cáp, đe dọa chiến lược và doanh thu của KT – thời bấy giờ vẫn dựa vào kết nối ISDN và dịch vụ kết nối quốc tế riêng biệt cho doanh nghiệp (leased line). KT vì thế lập tức đáp trả, tiến vào thị trường ADSL tháng 6/1999 và thu được 800.000 khách hàng ADSL trong chưa đầy một năm, nhanh chóng trở thành người dẫn đầu thị trường.
Từ cơ sở hạ tầng cáp tới nhà cung cấp ADSL
Sự triển khai và tỉ lệ thâm nhập băng rộng của Hàn Quốc ngay tại giai đoạn đầu phát triển là một trong những câu chuyện nổi bật của viễn thông thế giới. Một câu hỏi được đặt ra là tại sao thị trường băng rộng khởi đầu từ cơ sở hạ tầng cáp lại kết thúc bằng sự thống trị của các nhà cung cấp dịch vụ ADSL những năm cuối 1990? Câu trả lời nằm ngay trong 3 đặc điểm của thị trường Hàn Quốc: Khả năng lắp đặt DSLAM của các nhà mạng DSL tại các nhà cao tầng; xây dựng chủ sở hữu liên quan tới cơ sở hạ tầng cần thiết để tăng độ hấp dẫn và giá trị cho tài sản; gánh nặng quản lí đối với các nhà khai thác truyền hình cáp ngăn họ cạnh tranh với công ty viễn thông.
Video đang HOT
Từ giữa năm 2000-2002, Hàn Quốc chứng kiến tỉ lệ thâm nhập băng thông tăng nhanh nhất thế giới với số thuê bao tăng 200%, tỉ lệ tiếp cận hộ gia đình tăng từ 27% lên 69%. Tăng trưởng thuê bao đạt được nhờ sự giới thiệu dịch vụ giá trị gia tăng như VDSL và WLAN. Tuy nhiên, giữa những năm 2000, có bằng chứng cho thấy thành tựu to lớn xứ kim chi đạt được trong viễn thông không đồng nghĩa với sự ổn định của thị trường. Năm 2003, hai người chơi lớn thứ 3 và thứ 4 của ngành – ThruNet và Onse – vỡ nợ, trong khi “á quân” Hanaro cũng gặp khải khó khăn tài chính nghiêm trọng và sau đó bị SK Telecom thâu tóm. Tính bất ổn của thị trường không đơn giản là sự phản ánh về vòng đời băng thông mà là kết quả từ hai vấn đề phức tạp: Vai trò của Chính phủ trong việc tạo ra thị trường cạnh tranh với chế tài giới hạn; Mô hình quản lí của nhà mạng trong thị trường cạnh tranh khốc liệt chỉ tìm cách hấp dẫn khách hàng từ giá thấp và tiếp thị mà không khác biệt hóa sản phẩm.
Cuối năm 2005, khi nhà mạng gần phục hồi từ khủng hoảng tài chính, trọng tâm chuyển sang ra mắt thế hệ mạng lưới mới. Lần triển khai này thực hiện rộng rãi và tới cuối năm 2008, Hàn Quốc đã có 6,6 triệu thuê bao cáp quang, FTTH chiếm tới 43% kết nối băng rộng nội địa. Tiêu chuẩn và công nghệ băng rộng xuất hiện chủ yếu từ thị trường chứ không từ các nhà chức trách. Tuy nhiên, Chính phủ thông qua các cơ quan như Viện nghiên cứu điện tử – viễn thông ETRI và Viện phát triển Xã hội thông tin KISDI đóng vai trò quan trọng trong bổ sung tiêu chuẩn của ITU vào khu vực tư nhân.
Chính nhờ cách tiếp cận toàn diện và khung phát triển dự án bài bản trong nhiều năm của Chính phủ mà thị trường băng rộng Hàn Quốc đã phát triển tới mức như ngày nay.
Theo ICTNews
Cùng tìm hiểu về công nghệ Internet băng thông rộng
Ngày nay, khi bạn sử dụng Internet tại nhà, gần như chắc chắn bạn đang sử dụng một dạng thức của băng thông rộng. Băng thông rộng có thể được định nghĩa theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau ví dụ như khả năng truyền dữ liệu lên tới 1.5-2 Mbit/s. Tốc độ này cần thiết để có thể stream một file video chuẩn HD, chơi game online và cho phép gửi đi và nhận về một lượng lớn dữ liệu. Vậy bạn đang kết nối tới mạng Internet toàn cầu bằng cách nào. Hãy cùng genk điểm qua những công nghệ Internet băng thông rộng tại gia đang được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay.
Công nghệ sử dụng cáp truyền hình (cable modem)
Tại Mỹ, sử dụng đường mạng truyền hình cáp đang là một trong số những cách phổ biến nhất để truy cập Internet hộ gia đình. Tương tự như cáp quang và DSL (được đề cập ở dưới đây), mạng cáp truyền hình đóng vai trò cung cấp truy cập "last mile" từ nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) tới người dùng cuối. "Last mile" ở đây để chỉ khâu cuối cùng trong mạng lưới viễn thông, khi thực sự vươn tới khách hàng sử dụng dịch vụ.
Công nghệ này đòi hỏi có một modem đặt ở người dùng cuối và hệ thống CMTS- một thiết bị được đặt ở nhà cung cấp dịch vụ, thực hiện chức năng điều chế tín hiệu trước khi đưa đến cable modem. Hai hệ thống này được kết nối qua cáp đồng trục - tương tự như cáp TV. Khoảng cách giữa modem và và nhà cung cấp có thể lên tới 100 dặm với cơ sở hạ tầng tốt. Tốc độ sử dụng trên đường cáp này được chia sẻ giữa các người dùng và hệ thống được thiết kế để có thể phân phối tối ưu nhất tốc độ truyền. Nếu quá nhiều người truy cập một lượng lớn dữ liệu, thì bộ phận xử lý backend sẽ điều chỉnh hạ thấp tốc độ xuống cho tất cả người dùng.
Để hạn chế người dùng chiếm hết băng thông, modem được lập trình để phân loại băng thông theo giá cước. Gói sử dụng với giá cước cao hơn sẽ được cấp tốc độ cao hơn. Trong một vài năm trở lại đây, một số lượng lớn các nhà cung cấp băng thông rộng đã chuyển sang sử dụng chính sách phân bổ theo lưu lượng, người dùng truy cập nhiều dữ liệu hơn đồng nghĩa với việc trả tiền nhiều hơn.
Về mặt lý thuyết tốc độ với công nghệ này có thể đạt 100Mbit/s khi download và 20 Mbit/s khi upload.
DSL
Đối thủ cạnh tranh trực tiếp với cáp Internet là DSL, viết tắt của Digital Subscriber Line (Đường Thuê bao Số).
Nếu như trong cable modems, người dùng sử dụng đường truyền cáp tivi làm thiết bị cuối thì kỹ thuật DSL sử dụng đường truyền điện thoại nội hạt có sẵn. DSL được truyền đồng thời trên dây điện thoại mà không làm gián đoạn dịch vụ thoại hiện tại. Phần lớn DSL cung cấp tới hộ gia đình dưới dạng ADSL, với tốc độ download có thể nhanh hơn tốc độ upload. Còn với kỹ thuật ít phổ biến hơn là SDSL, tốc độ download và upload là tương đương nhau.
Giống như công nghệ sử dụng mạng cáp truyền hình, DSL vận hành bằng cách kết nối ISP tới điểm cuối là người dùng. Tuy nhiên kết nối giữa đường truyền điện thoại của người dùng và tổng đài điện thoại bị giới hạn ở khoảng cách 2 dặm. Khoảng cách xa hơn sẽ dẫn tới băng thông bị suy giảm. Vì thê mà DSL phát huy hiệu quả tốt nhất ở những khu vực gần với tổng đài điện thoại. Hiện nay tốc độ download trên đường truyền DSL hộ gia đình bị giới hạn ở 40Mbit/s và tốc độ trung bình có thể thấp hơn thế nhiều.
Cáp quang
Trong những năm trở lại đây, cable và DSL đang vấp phải sự cạnh tranh gay gắt từ đối thủ là công nghệ sử dụng đường truyền cáp quang. Lợi ích của công nghệ này so với cáp đồng trục hay đường dây điện thoại nằm ở chỗ nó có thể cung cấp tốc độ cao hơn nhiều ở phạm vi khoảng cách xa hơn.Trên thực tế, phần lớn mạng Internet đang sử dụng cáp quang làm nền tảng hạ tầng. Sau đó, hệ thống sẽ chuyển sang sử dụng các loại công nghệ khác nhau để đưa mạng tới người dùng cuối.
Tốc độ truyền tải lên tới 100Mbit/s không còn xa lạ gì trong công nghệ này. Thậm chí hạ tầng mạng cáp quang của Google có thể cung cấp cho người dùng hộ gia đình kết nối 1000Mbit/s theo cả hai chiều up lên và tải xuống.
LTE
Với những ưu việt rõ rệt so với kĩ thuật kết nối Internet qua dây, công nghệ mạng không dây đang nhanh chóng trở thành sự thay thế hữu hiệu đối với băng thông rộng quy mô hộ gia đình. LTE là viết tắt của Long-Term Evolution là công nghệ mạng không dây thế hệ mới. Ở Mỹ, các nhà mạng Verizon, AT&T and Sprint đều đã sử dụng công nghệ LTE và họ có thể cung cấp cho người dùng tốc độ băng thông rộng đúng nghĩa từ các thiết bị di động và modem không dây.
Không giống như công nghệ cable, sợi quang và DSL, LTE không đòi hỏi phải trang bị kết nối sử dụng dây nối để truy cập. Thay vào đó, người dùng sử dụng điện thoại LTE hoặc máy tính bảng, USB để kết nối. Hiện nay tốc độ có thể đạt tới 50Mbit/s khi download và 30Mbit/s khi upload. Trong tương lai khi Công nghệ cải tiến của LTE gọi là LTE Advanced đi vào hoạt động, người dùng hoàn toàn có thể truy cập với tốc độ cao hơn.
Khía cạnh tích cực nhất của LTE đó là nó có thể giải quyết triệt để vấn đề last mile. Trong khi cable và sợi quang có thể vận hành tốt ở phạm vi khoảng cách trung bình, những hệ thống này đang nằm trong vòng tranh luận liệu có phù hợp với những khu vực nông thôn ở các nước đang phát triển hay không, nơi mà hạ tầng viễn thông vẫn còn lạc hậu.
Trái lại, LTE có thể hoạt động ở phạm vi khoảng cách xa hơn nhiều và hạ tầng hỗ trợ chỉ cần mạng lưới các trạm thu phát tín hiệu. Bên cạnh đó, một lợi thế khác của LTE là người dùng có thể vẫn truy cập được khi di chuyển. Không như các công nghệ sử dụng dây để kết nối, LTE có thể được truy cập từ vô số các địa điểm. Người dùng có thể sử dụng iPad có kết nối LTE từ truy cập từ bất kì địa điểm nào hỗ trợ LTE. Nếu LTE không tồn tại ở khu vực đó, tín hiệu mặc định sẽ chuyển thành 3G.
Theo Genk
Ông Trương Đình Anh thôi giữ chức Chủ tịch FPT Telecom Hôm nay (11/10/2012), FPT xác nhận thông tin ông Trương Đình Anh xin rút khỏi chức vụ Chủ tịch FPT Telecom vì theo nguyện vọng cá nhân. FPT cho biết, ngày 28/9/2012, công ty đã ban hành nghị quyết về việc thay đổi nhân sự Hội đồng quản trị. HĐQT FPT Telecom đã chấp thuận đơn xin từ nhiệm của ông Trương Đình...