Bài 47 vụ 194 phố Huế: “Tòa trả hồ sơ phạm luật, thẩm phán sẽ phải chịu trách nhiệm”
“Nếu TAND TP Hà Nội trả hồ sơ để điều tra bổ sung vụ án Trịnh Ngọc Chung thì phải trong thời hạn tối đa 3 tháng từ khi thụ lý. Tòa trả hồ sơ không có căn cứ, phạm luật thẩm phán sẽ phải chịu trách nhiệm”, luật sư Phan Thị Lam Hồng nói.
Trước thông tin gia đình 194 phố Huế cho biết Tòa án nhân dân TP Hà Nội đã có Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung vụ án Trịnh Ngọc Chung -nguyên Trưởng Chi cục THA dân sự quận Hai Bà Trưng phạm tội “Ra quyết định trái pháp luật”, PV Dân trí đã có cuộc trao đổi với luật sư Phan Thị Lam Hồng (Đoàn luật sư TP Hà Nội) về sự việc dưới góc độ pháp lý.
Thưa luật sư Phan Thị Lam Hồng, tại giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, ai có thẩm quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung và thời gian ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung được quy định như thế nào ? Với cụ thể vụ án 194 phố Huế, thời hạn TAND TP Hà Nội được trả hồ sơ điều tra bổ sung như thế nào theo quy định pháp luật?
Luật sư Phan Thị Lam Hồng: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 39 BLTTHS thì Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có quyền ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
“2. Trong thời hạn ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định sau đây:
a) Đưa vụ án ra xét xử ;
b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Đối với những vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá mười lăm ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp”.
Luật sư Phan Thị Lam Hồng: Nếu như tại thời điểm này Thẩm phán mới ra quyết định trả hồ sơ vụ 194 phố Huế để điều tra bổ sung thì sẽ hành vi vi phạm nghiêm trọng các quy định về tố tụng hình sự.
Vấn đề này cũng được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/08/2010 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an và Tòa án nhân dân tối caoHướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung “Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung trong thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 2 Điều 176 của BLTTHS”
Trong vụ án 194 Phố Huế này, kể từ thời điểm VKSND Tối cao ra cáo trạng truy tố Trịnh Ngọc Chung vào ngày 08/7/2013 và TAND TP Hà Nội tiếp nhận và thụ lý hồ sơ vụ án đến nay đã được 9 tháng, cho nên nếu như tại thời điểm này Thẩm phán mới ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì sẽ hành vi vi phạm nghiêm trọng các quy định về tố tụng hình sự tại Điều 176 nêu trên.
Theo Khoản 2 Điều 121 BLTTHS và Khoản 3 Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC thì “Thời hạn điều tra bổ sung do Tòa án trả hồ sơ không quá một tháng tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung đến khi Cơ quan điều tra có bản kết luận điều tra bổ sung”.
L uật sư có thể cho biết những trường hợp được phép trả hồ sơ để điều tra bổ sung?
Luật sư Phan Thị Lam Hồng: Những trường hợp Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung được quy định tại Khoản 1 Điều 179 BLTTHS, cụ thể như sau:
“a) Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được;
b) Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác;
c) Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Video đang HOT
Những vấn đề cần điều tra bổ sung phải được nêu rõ trong quyết định yêu cầu điều tra bổ sung”
Cũng theo Khoản 3, Điều 1 Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC thì: “Điều kiện để trả hồ sơ điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ quan trọng đối với vụ án:
b) Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa (trong giaiđoạn chuẩn bị xét xử), Hội đồng xét xử (tại phiên tòa) ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án được hướng dẫn tại khoản 1, khoản 2 Điều này mà xét thấy không thể bổ sung tại phiên tòa được;
c) Không trả hồ sơ nếu là chứng cứ quan trọng nhưng nếu thiếu cũng truy tố, xét xử được hoặc không thể thu thập được.
Bên cạnh đó, Điều 7 của Thông tư này cũng nêu rõ:
“2. Sau khi nhận được hồ sơ vụ án và quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, nếu thấy quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án có căn cứ mà không thể tự mình bổ sung được thì Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và chuyển ngay hồ sơ cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra; nếu thấy quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án không có căn cứ theo hướng dẫn tại các điều 1, 3 và 4 Thông tư này thì Viện kiểm sát có văn bản nêu rõ lý do giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án để đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 2 Điều 179 của BLTTHS…
4. Nếu kết quả điều tra bổ sung không làm thay đổi quyết định truy tố thì Viện kiểm sát có văn bản nêu rõ lý do giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án; nếu kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi quyết định truy tố thì Viện kiểm sát ban hành cáo trạng mới thay thế cáo trạng cũ và chuyển hồ sơ đến Tòa án để xét xử”.
Xin luật sư cho biết r õ pháp luật hiện hành quy định thế nào là “Cần xem xét thêm những c hứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên t òa được”?
Luật sư Phan Thị Lam Hồng: Theo Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC, tại Điều 1 có quy định rất cụ thể về Chứng cứ quan trọng đối với vụ án:
“1. “Chứng cứ quan trọng đối với vụ án” quy định tại khoản 1 Điều 168 và điểm a khoản 1 Điều 179 BLTTHS là chứng cứ quy định tại Điều 64 của BLTTHS dùng để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 của BLTTHS và nếu thiếu chứng cứ này thì không thể giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật.
2. Thiếu chứng cứ sau đây là trường hợp thiếu chứng cứ quan trọng đối với vụ án:
a) Chứng cứ để chứng minh “có hành vi phạm tội xảy ra hay không” là chứng cứ để xác định hành vi xảy ra đó có đủ yếu tố của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự hay thuộc các trường hợp không phải là hành vi phạm tội (phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ, quan hệ dân sự, kinh tế, vi phạm hành chính…);
b) Chứng cứ để chứng minh “thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định nếu có hành vi phạm tội xảy ra thì xảy ra vào thời gian nào, ở đâu; phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm như thế nào;
c) Chứng cứ để chứng minh “Ai là người thực hiện hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định một con người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội đó;
d) Chứng cứ để chứng minh “có lỗi hay không có lỗi” là chứng cứ xác định người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có lỗi hay không có lỗi; nếu có lỗi thì thuộc trường hợp lỗi cố ý (lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp) hoặc lỗi vô ý (lỗi vô ý do quá tự tin hay lỗi vô ý do cẩu thả) theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 Bộ luật hình sự;
…….
e) Chứng cứ để chứng minh “mục đích, động cơ phạm tội” là chứng cứ xác định người thực hiện hành vi phạm tội với mục đích, động cơ gì và trong trường hợp mục đích, động cơ phạm tội là yếu tố tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc là yếu tố (tình tiết) của cấu thành tội phạm hoặc là yếu tố (tình tiết) định khung hình phạt;
g) Chứng cứ để chứng minh tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo là chứng cứ xác định bị can, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 46 của Bộ luật hình sự; có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 48 của Bộ luật hình sự hoặc là chứng cứ xác định tình tiết định khung hình phạt;
……
i) Chứng cứ để chứng minh “tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra” là chứng cứ để đánh giá tính chất, hậu quả (vật chất và phi vật chất) của hành vi phạm tội trong việc xác định tội phạm và quyết định hình phạt;
Sự chậm trễ trong việc xét xử vụ 194 phố Huế khiến dư luận không khỏi hoài nghi về những “bất thường” của vụ án này.
Thưa luật sư, thời gian gần đây có rất nhiều vụ án thẩm phán đ ã buộc phải ra Quyết địn h trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thậm chí có những vụ án đ ã bị t rả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần. Vậy làm sao để có thể hạn chế được số lần trả hồ sơ bổ sung nhằm đảm bảo tiến độ của vụ án theo đúng quy định tố tụng cũng như đảm bảo được tính đúng đắ n của pháp luật?
Luật sư Phan Thị Lam Hồng: Điều này đã được ghi nhận tại Khoản 2 Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC: “Để không trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần, Viện kiểm sát, Tòa án phải nghiên cứu toàn diện hồ sơ vụ án để phát hiện các trường hợp phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung và phải kịp thời ra quyết định, không được để hết thời hạn quyết định truy tố hoặc hết thời hạn chuẩn bị xét xử mới ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung”
Vậy pháp luật có quy định thẩm phán phải chịu trách nhiệm gì nếu nh ư ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung không có căn cứ?
Luật sư Phan Thị Lam Hồng: Khoản 4 Điều 39 BLTTHS quy định rõ:”Thẩm phán phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình”
Theo Khoản 3, Khoản 4 Điều 12 Thông tư liên tịch số 01/2010 nói trên thì nếu thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử trong trường hợp quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung không có căn cứ pháp luật và Viện kiểm sát có văn bản giữ nguyên quyết định truy tố, sau đó Tòa án xét xử vụ án như đề nghị của Viện kiểm sát, thì lãnh đạo Tòa án sẽ phải tổ chức kiểm điểm, xác định trách nhiệm cụ thể của từng người tiến hành tố tụng có liên quan đến việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật và có biện pháp khắc phục.
Xin cả m ơn lu ậ t sư!
Liên quan đến việc cưỡng chế thi hành án trái pháp luật với ngôi nhà 194 phố Huế, Dân trí đã có loạt bài điều tra làm rõ những hành vi vi phạm pháp luật của ông Trịnh Ngọc Chung – Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng (Hà Nội). Sau hàng chục bài báo đấu tranh không khoan nhượng của báo điện tử Dân trí, Cơ quan Điều tra Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đã ban hành Quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội: “Ra quyết định trái pháp luật” để điều tra làm rõ. Ngay sau đó, Cơ quan Điều tra Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao tiếp tục ra Quyết định khởi tố bị can Trịnh Ngọc Chung về tội: “Ra quyết định trái pháp luật” quy định tại Điều 296 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đã hơn 2 năm kể từ ngày Trịnh Ngọc Chung nhân danh “Nhà nước” cưỡng chế trái pháp luật ngôi nhà 194 phố Huế, đồng thời đã gần 1 năm trôi qua kể từ ngày bị truy tố, bị can Trịnh Ngọc Chung vẫn đang được tại ngoại, TAND TP Hà vẫn chưa đưa vụ án ra xét xử khiến dư luận một lần nữa không khỏi hoài nghi về những “bất thường” của vụ án này. Về quan điểm chỉ đạo giải quyết vụ 194 phố Huế, trả lời PV Dân trí, Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị khẳng định chỉ đạo cơ quan tư pháp xử lý nghiêm, khách quan, đúng luật.
Anh Thế (thực hiện)
Theo Dantri
Vụ án oan của ông Nguyễn Thanh Chấn: Nguyên tắc suy đoán vô tội bị xem nhẹ
Sau phiên tòa xét xử 5 công an ở TP.Tuy Hòa, Phú Yên dùng nhục hình dẫn đến chết người, dư luận càng bức xúc, vì sao những dấu hiệu ép cung, nhục hình khá rõ trong vụ án oan của ông Nguyễn Thanh Chấn vẫn chưa được các cơ quan chức năng khởi tố vụ án.
Ông Nguyễn Thanh Chấn ngày nhận quyết định tạm đình chỉ thi hành án.
Xoay quanh những câu hỏi về khả năng khởi tố vụ án, khi điều tra sẽ gặp những khó khăn gì..., phóng viên Báo Lao Động phỏng vấn nguyên Phó Viện trưởng VKSND Tối cao - TS Dương Thanh Biểu - người đã dũng cảm bảo vệ sự trong sáng của những nhân vật được dư luận đặc biệt quan tâm như ông Tạ Đình Đề và một Phó Giám đốc Công an tỉnh...
Ông Chấn bị buộc tội theo định kiến từ đầu
Khi còn là cán bộ kiểm sát trẻ, ông đã từng dám giữ quan điểm của mình để bảo vệ sự vô tội cho không ít người ở vị trí khá nhạy cảm (trong đó có ông Tạ Định Đề và một Phó Giám đốc Công an tỉnh...), ông lý giải như thế nào về những nguyên nhân khiến gây ra án oan thấu trời cho ông Nguyễn Thanh Chấn?
- Theo các nguồn thông tin đại chúng, nguyên nhân dẫn đến ông Nguyễn Thanh Chấn bị bắt giam, truy tố và xét xử oan có nhiều nhưng tôi cho rằng có những nguyên nhân cơ bản sau đây: Tôi đồng ý với một số dư luận cho rằng, các cơ quan và người tiến hành tố tụng ngay từ đầu đã định kiến ông Chấn phạm tội nên quá trình điều tra, truy tố và xét xử chỉ tập trung dùng các tài liệu để buộc tội, xem nhẹ nguyên tắc quan trọng trong tố tụng hình sự là nguyên tắc suy đoán vô tội.
Theo ông Chấn khai, trong quá trình điều tra, các cán bộ điều tra đã có hành vi bức cung, mớm cung, nhục hình, bắt ông Chấn phải nhận tội giết người. Nếu lời khai này là có căn cứ thì chứng tỏ, ngay từ đầu, cán bộ điều tra đã có định kiến Nguyễn Thanh Chấn phạm tội giết người nên tìm mọi cách để hỏi cung theo hướng buộc tội ông Chấn. Trong lúc đó, nhiều chứng cứ, tài liệu (hiện trường, nhân chứng) có tính chất gỡ tội cho ông Chấn lại không được điều tra làm rõ. Ngoài ra, một số dư luận cho rằng, rất có thể do bệnh thành tích, muốn nhanh chóng kết thúc điều tra nên đã vội vàng kết luận ông Chấn phạm tội giết người.
Trong quá trình truy tố xét xử: Tại tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo Chấn luôn khai không thực hiện hành vi giết người. Sở dĩ có lời khai nhận tội tại cơ quan điều tra là do bị ép cung, mớm cung, bức cung. Trong lúc đó chứng cứ buộc tội ông Chấn rất lỏng lẻo, thiếu logic, có sự mâu thuẫn về thời gian, về mô tả vật chứng, dấu vết, việc thực nghiệm hiện trường; hồ sơ vụ án có nhiều chứng cứ, tài liệu gỡ tội cho ông Chấn... Tuy nhiên, Hội đồng xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm) cũng như Kiểm sát viên không kiên quyết yêu cầu điều tra làm rõ mà vẫn kết tội cho ông Chấn.
Qua đây càng thấy ý nghĩa quan trọng của Hiến pháp năm 2013 nhấn mạnh về nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc tranh tụng trong xét xử.
Nguyên Phó Viện trưởng VKSND Tối cao - TS Dương Thanh Biểu.
Lời khai bị nhục hình của ông Chấn là có căn cứ
Những dấu hiệu ép cung, mớm cung, nhục hình trong vụ án ông Chấn là khá rõ, vậy theo ông, cần những điều kiện gì để khởi tố vụ án nhằm điều tra vụ việc và cái khó trong vụ án này khi xem xét để khởi tố?
- Việc cho rằng bị ép cung, mớm cung, nhục hình dẫn đến Nguyễn Thanh Chấn bị bắt giam, truy tố và xét xử oan là căn cứ vào lời khai của ông Chấn. Dư luận tin rằng lời khai của Nguyễn Thanh Chấn là có căn cứ. Tuy nhiên, để kết luận có hành vi ép cung, mớm cung và nhục hình hay không cần phải tiến hành điều tra theo đúng quy định của pháp luật.
Đây là công việc vô cùng khó khăn, vì vụ việc đã xảy ra lâu, tài liệu vật chứng chưa được thu thập đầy đủ, đối tượng bị tình nghi lại là những người nguyên là cán bộ có kinh nghiệm trong các cơ quan tư pháp. Mặt khác, các hành vi bức cung, mớm cung thời gian qua không phải vì mục đích tiêu cực, tham nhũng, do đó cần chú ý tìm hiểu nguyên nhân, điều kiện của việc làm sai phạm đó để có biện pháp xử lý thỏa đáng. Nghĩa là, khi xem xét, xử lý các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp cũng phải hết sức khách quan, toàn diện.
Dư luận hiện đang mong chờ các cơ quan chức năng vào cuộc để điều tra làm rõ hành vi bức cung, mớm cung đối với ông Chấn. Thiết nghĩ, quá trình điều tra, phát hiện những người có hành vi làm sai dẫn đến kết tội oan cho ông Chấn vừa phải bảo đảm tính nghiêm minh nhưng cũng vừa phải hết sức khách quan, thận trọng. Dư luận cũng đặt ra rằng, nếu vụ án này được điều tra khẩn trương và kết luận rõ ràng về hành vi phạm tội bức cung, mớm cung...sẽ làm tạo dư luận trong nhân dân tin tưởng và ủng hộ các cơ quan tư pháp.
Để khắc phục được án oan một cách căn bản, toàn diện, theo ông cần cải cách trong khâu tố tụng như thế nào?
Hiện tượng bức cung, mớm cung, nhục hình cũng thường xẩy ra ở các nước, kể cả các nước phát triển. Để khắc khắc phục hiện tượng này, pháp luật các nước tiên tiến đã có cách khắc phục là: Bất cứ bản cung nào đều phải có hai điều kiện mới được coi là bản cung hợp pháp. Thứ nhất, các bản cung phải có luật sư tham gia và thứ hai phải có băng ghi âm buổi hỏi cung đó. Thiết nghĩ, trong quá trình xây dựng Bộ luật Tố tụng Hình sự hiện nay cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy định về vấn đề này như thế nào để bảo đảm việc điều tra phải được khách quan, toàn diện.
Được minh án oan đã khó, nhưng đến khi thỏa thuận bồi thường được tiến hành thường cũng rất chậm chạp, theo ông đâu là giải pháp để hạn chế những bật cập này?
Thực tiễn có những trường hợp, khi một người được cơ quan có thẩm quyền quyết định là bị oan nhưng việc giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị oan được tiến hành rất chậm chạp. Ví dụ, trong trường hợp ông Phạm Đức Bình ở Hà Nội, ngày 5.1.2001, Tòa phúc thẩm, Tòa án Nhân dân Tối cao tại Hà Nội tuyên bố ông Bình không phạm tội "Tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa" và "Sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa" đồng thời Tòa cấp phúc thẩm cũng ra quyết định đình chỉ vụ án hình sự đối với ông Bình. Nhưng hơn 14 năm sau Tòa án nhân dân Hà Nội mới tổ chức xin lỗi ông Bình. Tuy nhiên, việc giải quyết bồi thường cho ông Bình do bị xét xử oan, đến nay vẫn chưa được giải quyết. Dư luận hết sức bất bình về việc giải quyết chậm trễ này.
Để giải quyết vấn đề này, ở các nước tiên tiến, Tòa án các cấp hoàn toàn độc lập với nhau. Không có chuyện Tòa án cấp dưới thỉnh thị Tòa án cấp trên. Còn việc thương lượng bồi thường với người bị oan thì do một cơ quan khác (không phải là cơ quan tư pháp) đảm nhận. Với cách thức tổ chức bộ máy như thế này, việc giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị oan rất nhanh chóng và thuận lợi. Do đó, trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta cũng nên nghiên cứu tổ chức lại bộ máy tư pháp cho phù hợp, đảm bảo việc giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị oan thuận lợi, nhanh chóng hơn.
- Xin cảm ơn ông!
Theo Vương Hà
Lao động
Vụ bắt nữ sinh đeo biển "ăn trộm": Chỉ nghĩ làm cho vui (!) Chiều 14/4, bà Nguyễn Thị Thu Ba, chủ siêu thị xảy ra vụ bắt nữ sinh đeo biển "Tôi là người ăn trộm" cho biết, khi xảy ra sự việc, bà không ở siêu thị nên không hề biết. Bảo vệ trói, bắt nữ sinh đeo biển thì nói chỉ nghĩ làm vậy cho... vui! Bà Ba - chủ siêu thị Vĩ Yên...