Ba nhóm lao động được hưởng lương bằng 1,8 lần mức lương Nhà nước quy định
Theo Quyết định số 19/2022/QĐ-TTg quy định về chi phí quản lý bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế giai đoạn 2022-2024; có 3 nhóm lao động được hưởng lương bằng 1,8 lần mức lương cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) Nhà nước quy định.
Cán bộ BHXH giải quyết thủ tục hành chính cho người lao động.
Quyết định quy định mức chi tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động làm việc trong cơ quan bảo hiểm xã hội bằng 1,8 lần mức lương đối với cán bộ, công chức, viên chức do Nhà nước quy định, được áp dụng đối với các đối tượng sau đây trong chỉ tiêu biên chế hoặc vị trí việc làm được cấp có thẩm quyền phê duyệt:
Cán bộ, công chức, viên chức và người lao động làm việc tại các đơn vị trực thuộc Bảo hiểm xã hội Việt Nam;
Người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động trong tổ chức Bảo hiểm xã hội Bộ Quốc phòng, Bảo hiểm xã hội Công an nhân dân;
Người lao động thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp của ngành lao động – thương binh và xã hội.
Tiền lương tăng thêm không bao gồm phụ cấp công vụ, phụ cấp thâm niên nghề, phụ cấp trách nhiệm theo nghề, phụ cấp ưu đãi giáo dục, phụ cấp thu hút ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, phụ cấp làm đêm, làm thêm giờ.
Không dùng để tính đóng, hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, kinh phí công đoàn và được thực hiện cho đến khi thực hiện cải cách chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp.
Quyết định quy định mức chi phí quản lý bảo hiểm xã hội (bao gồm bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp), bảo hiểm thất nghiệp thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 09/2021/UBTVQH15 ngày 08/12/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Video đang HOT
Theo đó, mức chi phí quản lý bảo hiểm xã hội bình quân giai đoạn 2022 – 2024 tối đa 1,54% dự toán thu, chi bảo hiểm xã hội (trừ số chi đóng bảo hiểm y tế cho người hưởng bảo hiểm xã hội) được trích từ tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội; trong đó, năm 2022 tối đa 1,59%, năm 2023 tối đa 1,54% và năm 2024 tối đa 1,49%.
Mức chi phí quản lý bảo hiểm thất nghiệp bình quân giai đoạn 2022 – 2024 tối đa 1,54% dự toán thu, chi bảo hiểm thất nghiệp (trừ số chi đóng bảo hiểm y tế cho người hưởng bảo hiểm thất nghiệp) được trích từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp; trong đó, năm 2022 tối đa 1,59%, năm 2023 tối đa 1,54% và năm 2024 tối đa 1,49%.
Mức chi phí quản lý bảo hiểm y tế theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế bình quân giai đoạn 2022-2024 tối đa 3,5% tiền đóng bảo hiểm y tế, được trích từ quỹ bảo hiểm y tế; trong đó, năm 2022 tối đa 3,55%, năm 2023 tối đa 3,5% và năm 2024 tối đa 3,45%. Dự toán chi phí quản lý bảo hiểm y tế hằng năm được xác định theo mức chi phí quy định tại khoản này tính trên dự toán thu tiền đóng bảo hiểm y tế hằng năm.
Quyết định này có hiệu lực thi hành từ ngày 10/11/2022 và được áp dụng cho các năm tài chính từ năm 2022 đến hết năm 2024. Riêng việc chi trả tiền lương tăng thêm 0,8 lần thực hiện theo quy định trên.
Năm 2021, hỗ trợ trên 33.505 tỷ đồng cho trên 28,26 triệu lượt đối tượng
Chiều 31/12, Văn phòng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) cho biết, theo báo cáo của Sở LĐTBXH 63 tỉnh, thành phố, tổng kinh phí thực hiện Nghị quyết 68, Quyết định 23 toàn quốc là trên 33.505 tỷ đồng, hỗ trợ trên 28,26 triệu lượt đối tượng.
Các địa phương ở thành phố Phan Rang-Tháp Chàm giải quyết chi trả kinh phí cho người thuộc diện thụ hưởng theo Nghị quyết số 68/NQ-CP của Chính phủ. Ảnh: Công Thử/TTXVN
Trong đó, riêng Thành phố Hồ Chí Minh đã hỗ trợ 8,85 triệu lượt đối tượng với số tiền 12.244 tỷ đồng. Một số địa phương có tổng kinh phí hỗ trợ cao là Bình Dương (3.118 tỷ đồng), Đồng Nai (2.787 tỷ đồng), Hà Nội (2.063 tỷ đồng), Bà Rịa - Vũng Tàu (1.742 tỷ đồng), Bắc Giang (858 tỷ đồng), Long An (737 tỷ đồng), Khánh Hòa (505 tỷ đồng).
Về kinh phí hỗ trợ, theo tính toán dự kiến ban đầu không bao gồm kinh phí do địa phương bố trí để hỗ trợ cho lao động tự do và một số đối tượng đặc thù, tổng kinh phí thực hiện gói hỗ trợ (gói 26 nghìn tỷ đồng) đến nay đạt 52,32% kế hoạch dự toán.
Theo Bộ LĐTBXH, về nhóm chính sách về bảo hiểm, tổng kinh phí hỗ trợ 3 chính sách về bảo hiểm là 5.438 tỷ đồng (tương đương 32,7% kế hoạch dự toán) hỗ trợ cho 375.857 đơn vị sử dụng lao động và gần 11,4 triệu người lao động. Cơ quan bảo hiểm xã hội đã rà soát và thông báo cho 375.000 đơn vị sử dụng lao động với 11.238.000 người lao động được giảm mức đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ tháng 7/2021 đến hết tháng 6/2022 với tổng số tiền (tạm tính) khoảng 4.322 tỷ đồng.
Chính sách tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất đã được thực hiện tại 58/63 tỉnh, thành phố với tổng số 844 đơn vị sử dụng lao động và 160.005 người lao động, tổng kinh phí 1.112,4 tỷ đồng. Các địa phương chưa có đối tượng hỗ trợ là: Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Đăk Nông và Kon Tum.
Cơ quan bảo hiểm xã hội đã xác nhận cho 4.644 lao động tại 45 đơn vị sử dụng lao động để làm hồ sơ đề nghị hỗ trợ đào tạo nghề. Tại 8 tỉnh, thành phố, 13 đơn vị sử dụng lao động được phê duyệt hỗ trợ 4,33 tỷ đồng để đào tạo nghề, duy trì việc làm cho 1.252 người lao động.
Cơ quan bảo hiểm xã hội các cấp đã xác nhận danh sách cho gần 2,97 triệu người lao động của 70.515 đơn vị sử dụng lao động để đề nghị hưởng các chính sách hỗ trợ tại 63 tỉnh, thành phố.
Đối với nhóm chính sách hỗ trợ bằng tiền, tổng kinh phí thực hiện chính sách hỗ trợ bằng tiền là trên 25.751 tỷ đồng (tương đương 244% kế hoạch dự toán), hỗ trợ gần 15,88 triệu đối tượng. Theo báo cáo của Kho bạc Nhà nước, ngân sách nhà nước đã chi 14.916 tỷ đồng để thực hiện hỗ trợ bằng tiền cho trên 17,88 triệu đối tượng.
Trong số này, trên 1,2 triệu người lao động tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương được hỗ trợ với tổng số tiền 4.240 tỷ đồng. Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là: Bình Dương, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Hà Nội, Bắc Giang.
482.090 người lao động ngừng việc được hỗ trợ 634 tỷ đồng. Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là: Đồng Nai, Bắc Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long, Bình Dương.
2.640 người lao động chấm dứt hợp đồng lao động được hỗ trợ gần 10,5 tỷ đồng. Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là: Đà Nẵng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai. Người lao động mang thai và 375.280 trẻ em dưới 6 tuổi là con của người lao động đã được hỗ trợ bổ sung với mức 1 triệu đồng/người.
702.210 đối tượng F0, F1 đã được hỗ trợ tiền ăn với tổng kinh phí gần 468,7 tỷ đồng. 52.880 trẻ em, 10 người cao tuổi và 4 người khuyết tật là đối tượng F0, F1 được hỗ trợ bổ sung với mức 1 triệu đồng/người. Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là: Long An, Bình Dương, Hà Nội, Bắc Giang, Nghệ An, Đồng Nai. Một số địa phương đã ban hành chính sách không thu tiền ăn của đối tượng F0, F1 tại các cơ sở cách ly, điều trị tập trung nên không báo cáo số liệu cụ thể về chính sách này.
1.602 đạo diễn nghệ thuật, diễn viên, họa sĩ giữ chức danh nghề nghiệp hạng IV được hỗ trợ kinh phí 5,9 tỷ đồng. Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là: Thành phố Hồ Chí Minh, Thừa Thiên - Huế, Hà Nội, Thanh Hóa, Khánh Hòa, Thái Nguyên.
14.695 hướng dẫn viên du lịch được hỗ trợ kinh phí 54,5 tỷ đồng. Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là: Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Thừa Thiên - Huế, Quảng Ninh, Khánh Hòa, Lâm Đồng.
252.375 hộ kinh doanh được hỗ trợ với kinh phí 714,7 tỷ đồng. Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Hà Nội, Đồng Nai, Đồng Tháp.
Đáng chú ý, trên 14,89 triệu người lao động tự do và các đối tượng đặc thù đã được hỗ trợ với tổng kinh phí 19.568 tỷ đồng từ các nguồn ngân sách nhà nước, nguồn vận động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các công ty xổ số kiến thiết,... Các địa phương có số kinh phí hỗ trợ lớn là: Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Hà Nội, Cần Thơ, Trà Vinh. Một số địa phương chưa có số liệu báo cáo hỗ trợ lao động tự do và đối tượng đặc thù: Sơn La, Tuyên Quang, Yên Bái, Điện Biên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Bắc Ninh, Thái Bình, Hải Phòng, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi.
Đối với nhóm chính sách cho vay vốn, theo báo cáo của Ngân hàng Chính sách xã hội, đã phê duyệt hồ sơ cho 2.485 lượt người sử dụng lao động vay vốn trên 2.325 tỷ đồng để trả lương cho 605.711 lượt người lao động. Đã giải ngân 2.315 tỷ đồng (tương đương 31% kế hoạch dự toán) hỗ trợ 2.474 lượt người sử dụng lao động để trả lương cho 603.050 lượt người lao động.
Trong tổng số người sử dụng lao động (NSDLĐ) được hỗ trợ vay vốn, số đơn vị sử dụng lao động vay vốn để trả lương ngừng việc chiếm 58,4%; số NSDLĐ vay vốn để trả lương phục hồi sản xuất sau khi tạm dừng hoạt động chiếm 28,3%; số NSDLĐ vay vốn để trả lương phục hồi sản xuất thuộc 5 lĩnh vực ưu tiên chiếm 13,3%.
Một số địa phương có tổng kinh phí giải ngân cao là Bắc Giang (382,9 tỷ đồng), Thành phố Hồ Chí Minh (379,2 tỷ đồng), Đồng Nai (359,2 tỷ đồng), Bình Dương (219,7 tỷ đồng), Hà Nội (162,2 tỷ đồng), Cần Thơ (118,1 tỷ đồng), Bắc Ninh (114,4 tỷ đồng).
Đối với việc triển khai Nghị quyết số 116 và Quyết định 28, theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, về cơ bản đã hoàn thành xong việc xác định số giảm đóng cho 363.600 đơn vị sử dụng lao động, tương ứng 9,68 triệu lao động với số tiền tạm tính được điều chỉnh giảm đóng (từ tháng 10/2021 đến tháng 9/2022) khoảng 7.595 tỷ đồng.
Cơ quan bảo hiểm xã hội các cấp đã rà soát và gửi danh sách người lao động thuộc đối tượng hỗ trợ đến 364.875 đơn vị sử dụng lao động, tương ứng với 12.165.786 lao động thuộc diện được hỗ trợ. Có 351.566 đơn vị đã gửi danh sách xác nhận hưởng hỗ trợ cho 12.105.125 lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Số người lao động đã dừng tham gia bảo hiểm thất nghiệp đề nghị hỗ trợ là 1.636.875 người. Có 28.827 người lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp nhưng tự nguyện không nhận hỗ trợ.
Đã giải quyết hưởng hỗ trợ cho 12.800.278 lao động (gồm 11.709.841 lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp và 1.090.437 người đã dừng tham gia) với số tiền hỗ trợ 30.323 tỷ đồng. Tổng số tiền đã chi trả là 30.069 tỷ đồng cho 12.698.562 người lao động, trong đó đại đa số là chi trả qua tài khoản cá nhân.
Theo Bộ LĐTBXH, một số chính sách an sinh xã hội khác cũng được triển khai hiệu quả như: Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam đã phối hợp với 46 tỉnh, thành phố hỗ trợ 14,68 tỷ đồng cho 3.321 trẻ em, gồm 2.840 trẻ em mồ côi mất cha, mẹ do COVID-19 (mức 5 triệu đồng/trẻ em - số tiền 14,2 tỷ đồng) và 481 trẻ em sơ sinh là con của sản phụ bị nhiễm COVID-19 (mức 1 triệu đồng/trẻ em - số tiền 481 triệu đồng).
Tính đến tháng 11/2021, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ xuất cấp 6.343,095 tấn gạo hỗ trợ 422.873 người (115.538 hộ) thiếu đói dịp giáp hạt; hỗ trợ 739,86 tấn gạo cứu đói cho 12.957 hộ với 49.324 nhân khẩu thiếu đói do thiếu đất lúa sản xuất vụ Hè Thu năm 2021. Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xuất cấp hơn 141.971 tấn gạo hỗ trợ cho 9.464.746 người (2.412.311 hộ) thiếu đói do đại dịch COVID-19.
Hôm nay 20-12 là hạn cuối nhận hồ sơ hỗ trợ từ gói 30.000 tỉ đồng Theo Bảo hiểm xã hội Việt Nam, ngày 20-12 sẽ là thời hạn cuối cùng tiếp nhận hồ sơ đề nghị hỗ trợ người lao động đã dừng tham gia bảo hiểm thất nghiệp ở mốc ngày 30-9-2021 theo quyết định 28 (gói 30.000 tỉ đồng). Người lao động có thể đăng ký nhận hỗ trợ online thay vì đến trực tiếp cơ...