Bà bầu thấp thỏm lo sản giật
Liên tiếp các ca sản phụ t.ử v.ong thời gian gần đây đã khiến các bà bầu vô cùng lo lắng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến các sự cố không mong muốn này là chứng sản giật.
“Lên cơn” bất cứ lúc nào…
Đang lọ mọ chuẩn bị bữa chiều, thai phụ Nguyễn Thị Hồng (Văn Điển, Hà Nội) bỗng “lên cơn” co giật kèm theo các biểu hiện co cứng người, mắt trợn ngược, hàm cứng, miệng sùi bọt mép, cơ thanh quản co lại làm bệnh nhân ngạt thở, toàn thân tím tái rồi khuỵu xuống. May mắn, gần đó không có chướng ngại vật gì và có người nhà phát hiện kịp thời nên đưa đến bệnh viện (BV) cấp cứu.
Sau khi được cấp cứu tại BV 103, các bác sĩ đã tiến hành mổ cứu được cả hai mẹ con. Theo các bác sỹ BV này cho biết, đây là trường hợp sản giật nặng mà thai phụ không biết.
Các sản phụ cần chú ý đến việc giữ gìn sức khỏe đề phòng chứng sản giật.
Do bồi bổ nhiều, chị Mai Thị Ngọc, Hà Đông, Hà Nội tăng cân vèo vèo trong quá trình mang thai. Mặc dù còn hơn tháng nữa mới đến ngày sinh nhưng chị đã rất ậm ạch, hơi thở nặng nhọc, hai bắp chân thì căng mọng và tím tái. Nghĩ rằng, sản phụ nào cũng có những biểu hiện như vậy, lại thấy mình vẫn trụ được nên chị vẫn yên tâm ở nhà dưỡng thai. Đùng một cái, chị “lên cơn” sản giật trong lúc đang đi vệ sinh. Thấy tiếng động lạ trong nhà vệ sinh, con trai chị đã mở cửa xông vào và hô hào hàng xóm sang đưa mẹ đi BV…
TS. Nguyễn Thị Minh Tâm, Chủ nhiệm bộ môn Phụ sản, BV 103 cho biết, sản giật thường là hậu quả của quá trình nhiễm độc thai nghén hoặc có bệnh tăng huyết áp mà không được điều trị kịp thời. Cụ thể, khi có thai, người mẹ có nhiều thay đổi trong cơ thể về các mặt thần kinh, thể dịch… Đặc biệt, các chất nội tiết tăng lên đột ngột, một số chất đạm ngoại lai từ thai sinh ra làm cho cơ thể người mẹ không thích ứng.
Các hiện tượng dị ứng này có thể xuất hiện sớm trong 3 tháng đầu, làm cho thai phụ có triệu chứng nghén (nôn và tiết nước bọt) nhưng cũng có thể xuất hiện vào tháng thứ 8 trở đi, biểu hiện bằng triệu chứng tăng huyết áp, phù, nước tiểu có albumin. Điều đặc biệt nguy hiểm là, có thai phụ có dấu hiệu, nhưng cũng thai phụ không hề có dấu hiệu gì, chỉ cảm thấy hoa mắt, chóng mặt, và đau đầu, rồi “lên cơn” lúc nào không biết.
Không nên tăng nhiều cân khi mang thai
Video đang HOT
Cũng theo TS. Minh Tâm, sản giật có thể xuất hiện trước khi sinh hoặc sau khi sinh. Sản giật còn là triệu chứng của các bệnh tăng huyết áp hay do bệnh thận mạn tính bị nặng nên khi có thai, thường gặp trong các trường hợp: Sản phụ còn ít t.uổi, sinh con so người lao động nặng, mệt mỏi mà gần đến tháng sinh không được nghỉ ngơi thời tiết quá lạnh, quá nóng đặc biệt khi thời tiết giao mùa thu sang đông, xuân sang hè, các bà bầu càng co nguy cơ cao bị sản giật. Thậm chí, có tới một nửa sản phụ mắc chứng t.iền sản giật sẽ chuyển thành chứng sản giật trong khoảng 24 giờ sau khi sinh.
ThS. Nguyễn Thị Thu Phương, BV Phụ sản Hà Nội cho biết thêm, t.iền sản giật ảnh hưởng trực tiếp đến nhau thai, khiến thai nhi thiếu dưỡng chất và oxy làm cho thai chậm phát triển. Thường thì những đ.ứa t.rẻ này sẽ ít cân hơn bình thường.
Còn đối với bà mẹ, nó gây tổn thương gan, thận, c.hảy m.áu, co giật, rối loạn tâm thần hoặc gây t.ử v.ong cho thai phụ. Tùy vào t.uổi thai, và t.iền trạng chuyển dạ, nếu không điều trị kịp thời, t.iền sản giật có thể dẫn tới phù phổi. Bởi vậy, tùy theo cấp độ nặng nhẹ của sản giật, các bác sĩ sẽ quyết định cách xử trí. Nếu thai nhỏ, bị nhẹ thì sẽ được theo dõi, uống thuốc. Nếu bệnh tăng dần lên trong khi có thai thì phải phá thai sớm để cứu tính mạng người mẹ. Nếu thai gần đủ tháng thì sẽ được chỉ định mổ.
Trước những hậu quả nặng nề của chứng bệnh, các chuyên gia đưa ra lời khuyện: Sản giật cũng có những biểu hiện gần giống như bệnh động kinh (bị co giật, sùi bọt mép…), vì vậy không nên nhầm lẫn giữa hai bệnh này. Trong trường hợp sản giật xảy ra, xử trí tạm thời bằng cách dùng một que gỗ ngáng qua miệng sản phụ để đề phòng sản phụ cắn vào lưỡi để sản phụ nằm nghiêng đầu về một bên cho đờm dãi chảy ra dễ dàng.
Để phòng bệnh, các sản phụ nên đi khám thai định kỳ, đúng hẹn. Người có bệnh thận, tăng huyết áp từ trước càng phải đến cơ sở y tế theo dõi chặt chẽ, điều trị tích cực. Trong quá trình mang thai, sản phụ không nên hạn chế ăn mặn, đồng thời phải có chế độ nghỉ ngơi, ăn uống hợp lý, tránh tăng cân quá nhiều.
Theo Pháp luật Việt Nam
Cấp cứu dị vật đường thở
Dị vật đường thở là thuật ngữ được dùng để chỉ các vật lạ rơi vào và mắc lại ở đường thở tại các vị trí thanh, khí hay phế quản. Dị vật đường thở là một cấp cứu thường gặp trong chuyên khoa Tai Mũi Họng. Nếu không được xử trí cấp cứu kịp thời, dị vật đường thở có thể gây t.ử v.ong.
Bất kỳ t.uổi nào cũng có thể bị dị vật đường thở, lứa t.uổi hay gặp là từ 1 đến 4 t.uổi, nam gặp nhiều hơn nữ. Dị vật có thể có nguồn gốc từ thực vật như hạt na, hạt nhãn, hột lạc... hoặc có nguồn gốc động vật như xương cá, vỏ tôm. Ngoài ra còn có dị vật có nguồn gốc vô cơ như mảnh đồ chơi bằng nhựa, kim khâu, đinh ghim... Dị vật cũng có thể là chất lỏng như cháo, sữa... Cá biệt còn có thể gặp dị vật là những sinh vật sống như là con tắc te (đỉa suối).
Dị vật đường thở có thể xuất hiện trong những tình huống như: cười đùa trong khi ăn, ngậm đồ vật trong miệng. Thậm chí có thể ở những tình huống rất đặc biệt như ép trẻ uống thuốc bằng cách bóp mũi khiến trẻ há miệng rồi ném viên thuốc vào...
Cách sơ cứu cho t.rẻ e.m mắc dị vật đường thở.
Triệu chứng lâm sàng của dị vật đường thở
Trẻ đang ngậm hoặc đang ăn đột nhiên có cơn ho sặc sụa, tím tái, ngạt thở trong chốc lát. Đó là hội chứng xâm nhập xảy ra khi dị vật qua thanh quản. Ngay lúc đó phản xạ bảo vệ đường thở của thanh quản thiết lập để tống dị vật ra ngoài. Đó là phản xạ co thắt để ngăn không cho dị vật tiếp tục đi vào sâu hơn nữa và phản xạ ho để tống dị vật ra ngoài.
Sau đó tùy theo vị trí dị vật mắc lại tại đường thở mà có thể xuất hiện các triệu chứng của hội chứng định khu.
Tiến hành nghiệm pháp trên người lớn: để bệnh nhân đứng, người cúi ra trước, người cấp cứu đứng phía sau, hai tay bắt vào nhau thành một nắm đ.ấm để vào vùng thượng vị của bệnh nhân, sau đó giật mạnh từ trước ra sau và từ dưới lên trên để làm tăng áp lực trong lồng ngực để có thể tống dị vật ra.
Dị vật thanh quản:
Nếu dị vật mắc ở t.iền đình thanh quản. Triệu chứng sẽ là khàn tiếng tăng dần, khó thở ngay lập tức nếu dị vật có kích thước lớn, hoặc khó thở từ từ tăng dần theo quá trình viêm nhiễm. Nếu dị vật ở hạ thanh môn, khó thở sẽ đến sớm hơn do đây là vùng dễ bị phù nề. Còn dị vật ở thanh môn sẽ gây khàn tiếng ngay lập tức, khó thở có ngay hoặc không cũng phụ thuộc vào kích thước dị vật.
Dị vật ở khí quản: Thường là những dị vật tròn nhẵn, trơn tru có đặc điểm di động theo nhịp thở. Sau hội chứng xâm nhập, bệnh nhân có thể trở lại bình thường nhưng sau đó thỉnh thoảng lại có cơn khó thở mà thường do ho sặc, thở mạnh đẩy dị vật lên vùng thanh môn. Đôi khi dị vật cố định như mảnh xương, nhọn, sắc cắm vào thành khí quản, bệnh nhân có cảm giác đau sau xương ức.
Dị vật ở phế quản: Dị vật ở phế quản bên phải hay gặp hơn bên trái. Sau hội chứng xâm nhập, bệnh nhân trở lại bình thường trong nhiều giờ, cho đến khi có những triệu chứng của viêm nhiễm thứ phát do dị vật gây nên: dị vật gây phù nề, xuất tiết, bội nhiễm. Dị vật gây phù nề bít tắc một phế quản phân thùy hoặc một thuỳ gây xẹp phổi hay khí phế thũng.
Xử trí cấp cứu dị vật đường thở
Dị vật đường thở là một cấp cứu, vì vậy việc cấp cứu phải được triển khai trong thời gian sớm nhất có thể. Trong đó việc sơ cứu ban đầu có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tuy nhiên những người không có chuyên môn hoặc cán bộ y tế không chuyên khoa chỉ nên thực hiện các cấp cứu ban đầu này trong trường hợp tối khẩn cấp vì nếu không cấp cứu ngay người bệnh sẽ t.ử v.ong.
Cấp cứu ở ngoài cơ sở y tế
Trong tình trạng bệnh nhân bị ngạt thở do dị vật gây bít tắc hoàn toàn đường thở, cần tiến hành làm nghiệm pháp Heimlich để tống dị vật ra ngoài. Lưu ý nghiệm pháp Heimlich chỉ được tiến hành khi tình trạng bệnh nhân khó thở ở mức độ nguy kịch. Nếu bệnh nhân không quá khó thở mà làm nghiệm pháp trên có thể kích thích dị vật di chuyển lên trên và kẹt ở thanh môn làm cho tình trạng khó thở thêm trầm trọng.
Tiến hành nghiệm pháp trên người lớn: để bệnh nhân đứng, người cúi ra trước, người cấp cứu đứng phía sau, hai tay bắt vào nhau thành một nắm đ.ấm để vào vùng thượng vị của bệnh nhân, sau đó giật mạnh từ trước ra sau và từ dưới lên trên để làm tăng áp lực trong lồng ngực để có thể tống dị vật ra. Cần làm động tác nhanh và dứt khoát. Khi bệnh nhân hôn mê: đặt bệnh nhân nằm ngửa, mặt ngửa lên trên. Nếu bệnh nhân nôn cần để đầu nghiêng sang một bên. Người cấp cứu quỳ gối ở hai bên hông bệnh nhân, đặt một cùi bàn tay lên bụng ở giữa rốn và mũi ức, bàn tay kia úp lên trên, đưa người ra phía trước ép nhanh lên phía trên, làm lại nếu cần. Sau mỗi đợt ép bụng: dùng 2 đến 3 ngón tay để móc khoang miệng kiểm tra. Nếu không thể hô hấp được cho bệnh nhân lập lại quá trình: ép bụng, kiểm tra đường thở và hô hấp nhân tạo, nhắc lại tới khi giải phóng được đường thở và hô hấp nhân tạo được.
Đối với trẻ nhỏ người sơ cứu ngồi, đặt trẻ nằm vắt ngang qua đùi người sơ cứu ở tư thế đầu thấp hơn ngực. Vỗ vào lưng bằng phần phẳng ở bàn tay (tốt nhất là vùng tiếp xúc giữa cẳng tay và bàn tay) 5 lần - 6 lần ở vị trí giữa hai xương bả vai của trẻ, đồng thời kiểm tra dị vật đường thở có được tống ra ngoài không.
Cấp cứu tại y tế cơ sở
Cần mở khí quản cấp cứu hoặc chọc kim qua màng giáp nhẫn để đưa ngay oxy đến đầy đủ trước khi chuyển đến tuyến chuyên khoa.
Tại tuyến chuyên khoa
Tại cơ sở chuyên khoa Tai Mũi Họng bệnh nhân sẽ được soi thanh khí phế quản cấp cứu. Đây vừa là biện pháp chẩn đoán vừa là biện pháp điều trị. Soi thanh khí phế quản trực tiếp là biện pháp tích cực nhất để điều trị dị vật sẽ được phát hiện và lấy ra trong quá trình soi. Trước khi soi có thể phải mở khí quản trong các trường hợp: có khó thở thanh quản cấp 2-3, dị vật có kích thước lớn gây khó thở nhiều, khi soi gắp ở nơi có trang thiết bị soi còn thiếu còn chưa thành thạo. Sau khi soi gắp dị vật bệnh nhân cần được theo dõi sát sao trong nhiều giờ tiếp theo, thở oxy hỗ trợ, hút dịch và các chất xuất tiết, nếu có mở khí quản nên rút ống sớm. Đồng thời bệnh nhân cần được điều trị nội khoa hỗ trợ như chống n.hiễm t.rùng bằng kháng sinh đường tĩnh mạch, chống phù nề và co thắt bằng corticoid theo đường tĩnh mạch và khí dung.
Phòng bệnh
Dị vật đường thở là một tai nạn có thể ảnh hưởng đến tính mạng, việc
tuyên truyền để nhiều người được biết rõ những nguy hiểm của dị vật đường thở là rất quan trọng. Trong sinh hoạt hàng ngày không nên để cho t.rẻ e.m đưa các vật và đồ chơi vào mồm ngậm và mút. Không nên để cho trẻ nhỏ ăn các loại quả và hạt dễ hóc như: hạt na, lạc, quất, hồng bì, hạt bí, hạt dưa... Nếu thấy trẻ đang ngậm hoặc ăn những thứ dễ gây nên hóc, không nên hoảng hốt, la hét, mắng trẻ vì làm như vậy trẻ sợ hãi dễ bị hóc. Người lớn cần tránh thói quen ngậm dụng cụ vào miệng khi làm việc.
Theo SK&ĐS
Trà chanh: Khách uống... phế phẩm Bắt đầu xuất hiện từ cách đây vài năm và dần dần nở rộ trên hầu hết những tuyến phố Hà Nội, các quán trà chanh đã trở thành điểm thu hút rất nhiều bạn trẻ mỗi buổi tối mùa hè nóng nực, tuy nhiên chất lượng của loại nước uống này ra sao thì không phải ai cũng để ý... Dùng "trà...