Ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và tình dục?
Bệnh viêm đường sinh dục do Chlamydia trachomatis, rất dễ lây nhiễm nhưng diễn biến lại âm thầm, nhiều khi không thể hiện triệu chứng (60 – 70% số trường hợp nhiễm Chlamydia ở nữ; 25 – 50% ở nam).
Bệnh lây truyền qua đường tình dục không gây triệu chứng
Bệnh viêm đường sinh dục do Chlamydia trachomatis, rất dễ lây nhiễm nhưng diễn biến lại âm thầm, nhiều khi không thể hiện triệu chứng (60 – 70% số trường hợp nhiễm Chlamydia ở nữ; 25 – 50% ở nam).
Nhiều nước rất quan tâm phát hiện sớm Chlamydia trachomatis. Ở Pháp, test phát hiện Chlamydia trachomatis, HIV, virut gây viêm gan cho các phụ nữ trẻ dưới 25 tuổi được miễn phí và không cần hỏi tên.
Ở Mỹ, gần như cứ 3 người thì có 1 người có nhiễm Chlamydia. Trong nhóm tuổi này, một nửa đã nhiễm ngay trong lần quan hệ tình dục đầu tiên hoặc bị tái nhiễm sau khoảng thời gian là 8 tháng. Vấn đề nhiễm khuẩn do Chlamydia mới được chú ý ở Việt Nam trong khoảng chục năm gần đây.
Bệnh u sùi sinh dục do Papilloma virus (HPV). Có hơn 20 týp HPV gây bệnh, những týp HPV gây ung thư cổ tử cung thường không có triệu chứng gì và các test phát hiện HPV lại chỉ có thể thực hiện được ở những labô có trình độ chuyên môn cao.
Bệnh do ký sinh trùng đơn bào Trichomonas vaginalis gây ra và chỉ một nửa số trường hợp có thể hiện triệu chứng.
Bệnh lậu với nam có thể khởi phát đột ngột nhưng với nữ lại thường không có triệu chứng gì.
Bệnh giang mai có thể không có dấu hiệu, nhiễm HIV trong giai đoạn dài cũng không thể hiện triệu chứng.
Vậy với những bệnh không thể hiện triệu chứng và người mang mầm bệnh không biết thì tạm thời không ảnh hưởng đến sinh hoạt và chất lượng quan hệ tình dục.
Ảnh minh họa
Khi bệnh đã biểu hiện, ảnh hưởng đến chất lượng sống và đời sống tình dục?
Video đang HOT
Vì ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý: não chính là cơ quan phát sinh ham muốn tình dục có hiệu quả nhất nên một khi đã bị ám ảnh vì sự mắc bệnh, lại bị những triệu chứng khó chịu của bệnh thì cả ham muốn và cảm xúc tình dục đều giảm, thậm chí mất hẳn.
Hơn nữa, các triệu chứng và tổn thương đặc thù của từng bệnh (đau, rát, khô hay ngược lại tiết dịch nhiều, sùi, loét…) cũng góp phần làm nguội lạnh hơn sự hứng khởi tình dục từ cả hai phía. Những triệu chứng và dấu hiệu của một số bệnh LTTD dưới đây hoàn toàn không thuận lợi cho các đáp ứng tình dục.
Bệnh lậu thường gây viêm niệu đạo ở nam giới với đái buốt và đái đục, có khi phải vuốt từ gốc dương vật ra mới thấy dịch đục như mủ chảy ra. Nhiễm vi khuẩn lậu ở phụ nữ gây viêm niệu đạo kèm viêm cổ tử cung, tiết dịch mủ. Biến chứng viêm tiểu khung gây đau làm cho phụ nữ không muốn quan hệ tình dục.
Bệnh Chlamydia làm cho phụ nữ xuất tiết âm đạo bất thường, ở trạng thái cấp tính thường kết hợp với vi sinh vật khác và dịch xuất tiết có mùi hôi. Có thể kèm đái khó, tiết dịch mủ từ trong ống cổ tử cung (40%). Cổ tử cung đỏ, to và dễ chảy máu. Đau là triệu chứng chủ quan và là lý do chủ yếu để đôi bạn tình thưa thớt quan hệ tình dục: viêm vùng chậu do Chlamydia ở nữ, viêm niệu đạo, viêm mào tinh hoàn ở nam.
Bệnh giang mai nguyên phát lại gây trở ngại đến quan hệ tình dục ở sự hiện hữu những tổn thương: một (hay hơn một) vết loét tuy không gây đau (đường kính 1 – 2cm) ở dương vật hay quanh âm đạo. Giang mai thứ phát thể hiện ban đỏ ở lòng bàn tay và gan bàn chân, cả ở thân mình, cánh tay và cẳng chân, kèm theo khó chịu, đau họng, sốt nhẹ, đau cơ.
Bệnh u sùi sinh dục làm mọc ở âm hộ, âm đạo, vùng cổ tử cung (có khi cả trực tràng, quanh hậu môn và bẹn), một hoặc nhiều u nhú không cuống nhưng có khi là những biểu hiện như sùi mào gà hoặc giống như súp lơ và mọc lan tràn. Thị giác có vai trò quan trọng với hứng khởi tình dục, nhất là với nam giới, nhưng nếu nhìn thấy tổn thương kiểu ’súp lơ’ thì e rằng nhiều bạn tình nam sẽ tắt ngấm ngay ý định quan hệ tình dục. Phụ nữ bị nhiễm virut gây u sùi còn dễ phát triển ung thư cổ tử cung. Điều bất ngờ, có đến 50% người trẻ bị nhiễm virut gây u sùi! Các nhà nghiên cứu nhận thấy khi một người trong đôi bạn tình bị nhiễm virut u sùi thì khả năng lây nhiễm HPV cho bạn tình là hơn 50%. 1% số phụ nữ nhiễm HPV sẽ phát triển ung thư cổ tử cung.
Bệnh hạ cam do vi khuẩn Hemophilus ducreyi gây ra nhiều vết loét ở vùng sinh dục, vì thế cả hai phía nam nữ đều muốn tránh quan hệ tình dục. Tam chứng ‘hạ cam’ là: loét có bờ nham nhở, hàm ếch; đáy vết loét bẩn, tiết dịch màu xám; có thể gây đau từ vừa phải đến dữ dội (cũng đau cả ở bẹn). Dưới 50% số bệnh nhân có cả 3 triệu chứng. Ở nam giới, loét thấy ở mặt trên hoặc mặt dưới bao quy đầu, ở phụ nữ thấy ở cửa âm đạo, mặc dù đối với phụ nữ những vết loét thường không đau. Các vết loét là yếu tố phối hợp để tăng lây nhiễm HIV.
Bệnh mụn giộp sinh dục với bệnh cảnh lúc đầu là những mụn nước sau đó mụn nước bị loét trở thành những tổn thương nông và đau ở vùng sinh dục (đau từ vừa phải đến nặng), ngứa, đái khó, tiết dịch âm đạo đã dập tắt ham muốn và cả thực hành tình dục. Những triệu chứng ở phụ nữ còn nghiêm trọng hơn và kéo dài 3 – 5 tuần.
Viêm âm đạo do loạn khuẩn và do nấm tuy không nguy hiểm nhưng gây phiền phức, khó chịu cho phụ nữ vì dịch xuất tiết âm đạo nhiều, hôi (cần phân biệt với viêm âm đạo do Chlamydia và bệnh lậu) và gây ngứa. Viêm âm đạo do loạn khuẩn còn là một yếu tố để dễ bị nhiễm và lây truyền HIV.
Theo BS. Hồng Anh/Suckhoedoisong.vn
Phụ nữ trẻ dễ mắc các bệnh tình dục nhất
Cách tốt nhất để ngăn ngừa nhiễm bệnh là tự bảo vệ mình bằng các nhiều phương pháp khác nhau.
Cứ mỗi năm có thêm khoảng 19 triệu người bị mắc bệnh lây qua đường tình dục (STD).
Những phụ nữ trẻ trong độ tuổi từ 19 đến 24 phải chịu nhiều hậu quả như các bệnh nhiễm trùng, ngứa hay rát bộ phận sinh dục và có khả năng bị vô sinh hay nặng hơn là tử vong. Cách tốt nhất để ngăn ngừa các bệnh gây qua đường tình dục gây ra bởi vi-rút hay vi khuẩn là tự bảo vệ mình bằng các nhiều phương pháp khác nhau.
Những bệnh lây truyền qua đường tình dục phổ biến nhất ở phụ nữ
Số liệu năm 2007 do Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa bệnh (CDC) cung cấp đã cho thấy những bệnh lây truyền qua tình dục phổ biến ở phụ nữ bao gồm:
- Chlamydia: Năm 2007 có hơn 1 triệu người chuẩn đoán mắc bệnh Chlamydia, số lượng người bị mắc cao nhất trong lịch sử. Phụ nữ có nguy cơ mắc bệnh này gấp ba lần so với đàn ông.
- Bệnh lậu: 355.991 người bị chẩn đoán mắc bệnh lậu năm 2007. Cũng như nguy cơ mắc Chlamydia, phụ nữ bị mắc bệnh này nhiều hơn đàn ông. CDC còn ước tính số người nhiễm bệnh có thể cao hơn do nhiều người không được chẩn đoán.
- Mụn rộp ở cơ quan sinh dục: 1/5 trong số thiếu niên và người lớn hiện nay bị mắc bệnh này. Đây là một bệnh rất phổ biến và phụ nữ có nguy cơ cao hơn đàn ông.
- Bệnh giang mai: Không giống như các bệnh đã đề cập ở trên, bệnh này xuất hiện nhiều hơn ở nam giới. Bệnh giang mai đang ngày càng phát triển với số lượng người mắc bệnh ngày càng nhiều, đặc biệt ở những người đàn ông có quan hệ tình dục với nam giới.
-HIV/AIDS: Mặc dù bệnh này ít phổ biến hơn so với các bệnh lây truyền qua đường tình dục kể trên nhưng hiện nay số người bị chuẩn đoán mắc bệnh này nhiều hơn so với trong quá khứ.
Khi người phụ nữ đã bị mắc bệnh STD một lần thì rất dễ mắc bệnh lần thứ hai. Bởi vì các bệnh lây truyền qua đường tình dục gây viêm nhiễm mô âm đạo, có thể làm tổn thương mạch máu và dễ bị nhiễm bởi các loại vi-rút, vi khuẩn. HIV là một trong những bệnh lây truyền qua đường tình dục nguy hiểm nhất.
Ảnh minh họa
Hậu quả của các bệnh lây qua đường tình dục (STDs)
Các biến chứng về sức khỏe ở phụ nữ rất nhiều, bao gồm:
- Vô sinh: Các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục nếu không được điều trị sẽ gây ra bệnh vô sinh ở phụ nữ.
- Mang thai ngoài tử cung: Điều này có thể bị gây ra do vi khuẩn Chlamydia hoặc bệnh lậu, làm cho trứng đã được thụ tinh phát triển ở bên ngoài tử cung.
- Bệnh viêm vùng xương chậu (PID): Hai trong số năm phụ nữ không được điều trị khi mắc bệnh Chlamydia có thể dẫn đến nguy cơ bị đau vùng chậu, mang thai ngoài tử cung và vô sinh. Bệnh lậu cũng có thể gây ra PID.
- Nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh: Phụ nữ mang thai khi bị bệnh giang mai, mụn rộp ở cơ quan sinh dục, viêm gan B hoặc HIV có thể truyền những bệnh này cho đứa con của họ. Điều này có thể gây ra sinh non, thai chết lưu, tử vong ngay sau khi sinh, dị tật bẩm sinh và trong trường hợp người mẹ nhiễm HIV thì người con có thể mắc bệnh này cả đời.
- Bệnh tim và bệnh não: Bệnh giang mai không đượng chữa trị có thể dẫn tới các vấn đề về tim mạch và thần kinh.
- Ung thư cổ tử cung: Bệnh này chủ yếu do một số loại u nhú (HPV) ở người gây ra.
- Gia tăng nguy cơ lây nhiễm HIV: Các nghiên cứu cho thấy những người phụ nữ bị Chlamydia hay bệnh lậu dễ dàng bị nhiễm HIV nếu họ tiếp xúc.
- Tử vong: Nếu không điều trị dứt điểm, bệnh giang mai và HIV có thể dẫn đến tử vong.
Làm thế nào để giảm rủi ro?
Kiêng tất cả các loại quan hệ tình dục hậu môn, miệng là ngăn chăn sự lây truyền các bệnh STD. Tuy nhiên bạn có thể dử dụng một số cách sau:
- Luôn luôn sử dụng bao cao su mới: Bạn nên sử dụng bao cao su mới trong bất cứ hình thức quan hệ tình dục nào. Các phương pháp ngăn ngừa tránh thai như uống thuốc viên, bọt biển, dụng cụ tử cung không chống lại được các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
- Xét nghiệm và điều trị: Nếu bạn có bất cứ dấu hiệu nào chứng tỏ bị nhiễm bệnh thì hãy đến gặp ngay bác sĩ chuyên ngành để được chẩn đoán và điều trị. Nên tránh quan hệ tình dục cho đến khi bạn được kiểm tra và chẩn đoán. Nếu bạn bị chẩn đoán mắc bệnh STD, hãy đưa người đã quan hệ với bạn để được xét nghiệm và điều trị để tránh tái nhiễm.
- Tiêm vắc-xin: Đối với HPV, vắc-xin có thể làm giảm nguy cơ mắc một số vi-rút gây ung thư cổ tử cung. CDC khuyến cáo tất cả các nữ giới từ 13 đến 26 tuổi nên tiêm vắc-xin để phòng chống lại HPV.
Theo Suckhoedoisong.vn
Biến chứng nguy hiểm từ các bệnh lây truyền qua đường tình dục Có trên 20 bệnh lây truyền qua đường tình dục (LTQĐTD), nhưng thường gặp là các bệnh lậu, giang mai, trùng roi sinh dục, nhiễm Chlamydia, bệnh hạ cam, hespes sinh dục, sùi mào gà sinh dục và HIV/AIDS. Biểu hiện của các bệnh LTQĐTD gồm: có dịch bất thường chảy ra từ âm đạo hoặc đầu dương vật; hậu môn hoặc cơ...