Amazon – Đi lên từ những ý tưởng “điên rồ”
Với lòng tự tin học được từ những mùa hè ở nông trại với ông bà ngoại, Jeff Bezos đã sáng lập nên Amazon và áp dụng những ý tưởng ban đầu tưởng chừng rất điên rồ.
Jeff Bezos đã chèo lái đưa Amazon trở thành hãng bán lẻ trực tuyến lớn nhất thế giới. Ảnh: INTERNET
Lần đầu tiên Jeffrey Preston Bezos đến trang trại nuôi bò của ông bà ngoại ở Texas là năm ông lên 4 tuổi. Đó là một trang trại rộng 25.000 mẫu – nơi cư trú của những dãy cây sồi và là nhà của các loài hươu nai đuôi dài, lừa, chim bồ câu, chim cút, lợn và cừu.
Ông bà ngoại muốn chia sẻ cuộc sống nông trại này với cháu trai. Cho đến năm 16 tuổi, mỗi mùa hè Jeff lại đến đây với ông bà. Ở đây, ông học cách rửa chuồng trại, đóng nhãn cùng các công việc nông trại khác. Jeff nói, những năm tháng ở đây ông đã học được một điều quan trọng: “Một trong những điều bạn phải học ở khu vực nông thôn như thế này là lòng tự tin. Mọi người đều phải tự làm việc. Lòng tự tin đó là cái bạn có thể học, và ông ngoại của tôi là một tấm gương lớn cho tôi. Nếu một cái gì đó hỏng hóc, hãy sửa chữa nó. Để làm được điều đó, bạn phải kiên nhẫn và tập trung, đến mức người khác có thể cảm thấy bạn không bình thường”.
Khởi nghiệp
Mùa hè năm 1994, Bezos từ bỏ công việc làm Phó Chủ tịch hãng Dịch vụ tài chính D.E. Shaw ở New York và cùng với vợ là MacKenzie chuyển đến Seattle để tận dụng sự phát triển bùng nổ của Internet và khởi nghiệp Amazon. Tên đầu tiên của công ty là Cadabra, đã bị hủy bỏ sau khi một số người nghe nhầm nó thành “cadaver” (nghĩa là xác chết, tử thi).
Ngôi nhà gồm 3 phòng ngủ mà vợ chồng Bezos thuê nằm ở ngoại ô Bellevue. Bezos chọn nó một phần vì nó có gara – nơi đó, ông có thể khởi nghiệp như nhiều huyền thoại Silicon Valley khác. Trang web khai trương vào ngày 16/7/1995 – đúng dịp mọi người ồ ạt lên Internet và trước khi nhiều đối thủ kịp tung ra các website thương mại cạnh tranh khác.
Bezos chuyển công ty đến một khu công nghiệp khác và định cư trụ sở trong khu văn phòng rộng gần 500m2 trên tầng 2, cùng với khoảng 200m2 ở tầng hầm để làm kho. Bàn làm việc được đóng từ thứ gỗ rẻ tiền, còn nhà kho chỉ lưu trữ được mấy trăm cuốn sách để phân phối cho khách hàng.
Nhờ chiết khấu 10-30%, đơn đặt hàng bắt đầu đến ngay khi trang web Amazon ra đời. Một trong các nhà lập trình đã thiết lập chương trình trên máy tính, vì thế mỗi lần có đơn đặt hàng mới đến họ sẽ được thông báo ngay lập tức. Ba ngày sau khi khai trương, Bezos nhận được một email của Jerry Yang – nhà đồng sáng lập của hãng Yahoo. Jerry nói: “Chúng tôi thấy trang của các anh rất tốt, anh có muốn quảng cáo nó trên trang What’s Cool không?” Sau này ông Bezos nhớ lại, “Chúng tôi đã suy nghĩ, và quyết định đồng ý”. Yahoo đã đưa Amazon vào danh sách khách hàng, và các đơn đặt hàng thi nhau đến với Amazon.
Từ lối kinh doanh a-ma-tơ…
Vào cuối tuần, Amazon nhận được các đơn hàng với tổng giá trị trên 12.000 USD. Trong tuần đó, công ty chỉ chuyển được số sách trị giá 846 USD. Tuần tiếp theo, họ nhận được đơn đặt hàng trị giá gần 15.000 USD, và nhóm của Bezos chỉ chuyển được trên 7.000 USD đơn hàng. Vào lúc khai trương, trang web vẫn chưa thực sự hoàn thành. Triết lý của Bezos là phải nhanh chóng tiếp cận thị trường, nhảy vào cuộc cạnh tranh và xử lý các vấn đề, nâng cấp website khi mọi người bắt đầu sử dụng nó.
Trong những tuần đầu tiên, mọi người ở công ty phải làm việc đến tận 2-3 giờ sáng để đóng gói sách, đề địa chỉ và gửi đi. Bezos đã sao nhãng, không đóng bàn đóng gói sách, vì thế mọi người phải quỳ gối trên sàn nhà để làm. Ông nhớ lại, chỉ sau mấy giờ làm việc ông đã phải gợi ý các nhân viên nên lót đệm xuống đầu gối. Nicholas Lovejoy, một nhân viên, “đã nhìn tôi như thể tôi là người từ Sao Hỏa đến”, ông Bezos nói. Lovejoy đưa ra gợi ý rõ ràng: hãy mua một số cái bàn. “Tôi nghĩ đó là ý tưởng thông minh nhất mà tôi từng nghe trong cuộc đời mình”, Bezos nói.
Dù cách kinh doanh, vận hành có vẻ rất nghiệp dư, rất “a-ma-tơ”, song Amazon phát triển rất nhanh chóng. Đến tháng 10/1995, công ty đã ghi dấu ấn một ngày đầu tiên bán được 100 cuốn sách. Trong chưa đầy 1 năm, hãng đã ghi được kỷ lục nhận một đơn đặt hàng mua số lượng 100 cuốn sách. Tiếng lành đồn xa, mặc dù công ty hầu như không quảng cáo gì mấy trong năm đầu tiên, song ngày càng nhiều người biết đến Amazon. Ông Bezos chỉ thuê một số màn hình hiển thị trên các cửa hàng của Barnes & Noble, nói rằng: “Can’t find that book you wanted?” (Không thể tìm ra cuốn sách mà bạn cần?), và bên dưới là địa chỉ website của Amazon.
Dịch vụ khách hàng của công ty – cái mà Bezos sau đó đã gọi là “nền tảng của Amazon.com” – bắt đầu bằng việc chính bản thân nhà sáng lập Bezos trả lời các email của khách hàng. Một người phụ nữ lớn tuổi từng gửi email đến Amazon nói rằng bà thích đặt hàng mua sách từ trang web, nhưng phải đợi đến khi cháu trai về để mở các gói hàng khó mở. Ông Bezos đã yêu cầu phải đóng gói lại các gói hàng sao cho dễ mở hơn.
… đến những ý tưởng không ai hiểu nổi
Đến năm 1999, bộ phận này đã có 500 nhân viên dịch vụ khách hàng, làm việc trong các văn phòng chia khối và trả lời yêu cầu của khách. Các nhân viên này được trả khoảng 10-13 USD/giờ và có thể được thăng chức, thưởng thêm quyền chọn cổ phiếu hậu hĩnh. Những người làm việc tốt nhất có thể trả lời 12 email/phút. Những người chỉ trả lời được chưa đến 7 email/phút sẽ bị sa thải.
Video đang HOT
Một quản lý dịch vụ khách hàng của Amazon nhớ lại rằng, khi nhân viên trả lời email chậm và tồn đọng hàng loạt email, mặc dù họ đã làm việc 12 giờ mỗi ngày, 7 ngày mỗi tuần, ông Bezos đã gọi bà đến để phàn nàn. Khi bà nói với ông rằng họ không thể làm việc hơn nữa, ông đã đưa ra một giải pháp: Họ sẽ có 2 ngày để cạnh tranh với nhau, xem ai có thể xử lý được nhiều email tồn đọng nhất. Và trong 48 giờ đó, mỗi người đã làm thêm ít nhất 10 giờ ngoài ca làm thông thường của họ. Kết quả, mỗi người được thưởng 200 USD tiền mặt cho mỗi 1.000 email mà họ có thể hồi đáp. Sau 2 ngày, số email tồn đọng đã được xử lý hết.
Trong những ngày đầu lập nghiệp, ông Bezos đã để nhân viên tham gia vào cuộc thi chọn ra 20 tựa sách kỳ lạ nhất được bán ra mỗi tuần và trao giải thưởng cho tựa sách lạ nhất. Ngoài ra, một trong những quyết định gây nhiều tranh cãi của ông là cho phép khách hàng đăng tải nhận xét riêng của họ về cuốn sách lên website, dù nhận xét đó tích cực hay tiêu cực. Các nhà cạnh tranh không thể hiểu tại sao Amazon lại cho phép một việc làm như vậy. Chỉ trong mấy tuần, ông Bezos nói: “Tôi bắt đầu nhận được những lá thư của những người thân tín và hiểu biết, nói rằng có lẽ tôi chưa hiểu công việc kinh doanh. Tôi bán hàng để kiếm tiền, tại sao lại cho đăng những lời nói xấu lên website của mình? Nhưng quan điểm của chúng tôi là sẽ bán được nhiều hàng hơn nếu giúp mọi người đưa ra quyết định mua hàng”. Cùng với thời gian, phong cách quản lý bất thường của Bezos bắt đầu phát huy tác dụng. Không phải lúc nào ông cũng là một CEO “tử tế”. Ông có thể truyền cảm hứng cho mọi người nhưng cũng có thể rất khó chịu và mắng mỏ, nhiếc móc mọi người. Ông có thể nhìn ra bức tranh toàn cảnh, ông nhiều ý tưởng, thông minh và yêu cầu cao.
Một cựu quản lý của Amazon nhớ lại, trong một lần các nhà quản lý gợi ý nhân viên nên trao đổi ý kiến với nhau nhiều hơn, ông Bezos đã đứng lên và tuyên bố: “Không, như thế thật khủng khiếp”! Ông muốn một công ty phi tập trung, thậm chí không có tổ chức, và ở đó, những ý kiến độc lập sẽ lấn át những ý kiến tập thể. Sau này, Bezos tiếp tục có những cải tiến mạnh dạn, như việc cho phép khách hàng mua hàng hóa rất đơn giản bằng cách gật đầu trước máy tính, Kindle hay điện thoại di động.
Amazon.com là một công ty thương mại điện tử đa quốc gia của Mỹ, có trụ sở tại Seattle, Washington, Mỹ. Amazon là hãng bán lẻ trực tuyến lớn nhất thế giới, có các website riêng cho từng quốc gia như Mỹ, Canada, Anh, Đức, Pháp, Italy, Tây Ban Nha, Nhật Bản và Trung Quốc. Sắp tới, công ty sẽ khai trương các website tại Hà Lan, Thụy Điển, Ấn Độ….
Jeff Bezos đã sáng lập nên Amazon.com vào năm 1994 và trang web chính thức online vào năm 1995. Amazon.com ban đầu chỉ là một hiệu sách trực tuyến, nhưng đã nhanh chóng đa dạng hóa, bán cả DVD, CD, tải nhạc MP3, phần mềm máy tính, video game, hàng điện tử, nữ trang, đồ nội thất, thực phẩm và cả đồ chơi.
Theo ICTnew
7 CEO sáng tạo nhất nước Mỹ
Họ được cả thế giới mến mộ về sự sáng tạo, khả năng điều hành trong nhiều bối cảnh kinh tế và quan trọng hơn đó là khả năng chiếm lĩnh thị phần từ tay đối thủ.
Nếu tính theo những tiêu chí trên, có rất nhiều CEO đã không lọt vào danh sách này dù họ cũng nổi tiếng không kém.
Có thể Exxon Mobil có thể là công ty dầu mỏ lớn nhất và đạt lợi nhuận lớn nhất trên thế giới, nhưng CEO Rex Tillerson của tập đoàn này đã không phải là người thực hiện vụ sáp nhập giúp Exxon Mobil trở thành tập đoàn khổng lồ và cũng không phải là người đi tiên phong trong lĩnh vực tìm kiếm dầu thô hay những tiến bộ trong khai khoáng.
Intel vẫn tiếp tục tạo ra những đột phá trong lĩnh vực kinh doanh chip điện tử, nhưng CEO Paul Otellini của công ty này chỉ là người dựa trên những thành công của những nhà sáng lập Intel - những người đã gây dựng ngành công nghiệp chip và tiến hành những đổi mới tại Intel. Amgen là công ty về công nghệ sinh học lớn nhất và thành công nhất thế giới. Nhưng CEO Kevin Sharer của công ty này không phải là người đưa ra những phát minh trong phòng thí nghiệm của công ty.
Tờ 24/7 Wall Street đã tiến hành nghiên cứu những tập đoàn thành công nhất nước Mỹ, về cả tăng trưởng doanh thu và giá cổ phiếu. Từ đó đưa ra danh sách những công ty với động lực thành công chính là nhờ CEO.
1. Netflix: CEO Reed Hastings
Hiện CEO của tập đoàn kinh doanh nội dung số Netflix mới 50 tuổi.
CEO của tập đoàn kinh doanh nội dung số Netflix mới 50 tuổi. Ông là nhà đồng sáng lập Netflix năm 1998. Mục tiêu đầu tiên của Netflix là công ty cho thuê băng đĩa có lợi nhuận khổng lồ Blockbuster. Khi Netflix được thành lập, doanh thu của Blockbuster là trên 5 tỷ USD với gần 6.000 cửa hàng. Khi đó, Hastings tin rằng khách hàng sẽ cảm thấy rất tiện lợi và thoải mái nếu như họ có thể nhận được đĩa DVD tại nhà. Và ông đã đúng. Giờ đây, khi Blockbuster phá sản thì Netflix lại có trên 200 triệu khách hàng.
Nhưng sự sáng tạo của Hastings không chỉ dừng ở đó. Năm 2004-2005, khi công nghệ băng thông rộng phát triển rộng rãi, Netflix đã ứng dụng công nghệ này để cung cấp dịch vụ cho phép khách hàng có thể truyền tải nhiều nội dung từ các máy chủ của Netflix đến máy tính cá nhân của họ. Hai năm sau đó, dịch vụ này đã được nâng cấp, cho phép nhưng bộ phim hay chương trình được truyền thẳng tới TV.
Hastings cũng tiến hành các thỏa thuận để được cấp phép về nội dung trực tiếp từ các studio, điều này là mối đe dọa lớn đối với truyền hình cáp hay các doanh nghiệp viễn thông cung cấp dịch vụ cáp quang tại nhà. Chỉ trong 13 năm, Hastings đã thay đổi cả hệ thống vận chuyển và cho thuê video và các mô hình cơ sở hạ tầng cho phép truy cập những nội dung cao cấp. Trong 5 năm, cổ phiếu của Netflix đã tăng 100%, tốc độ tăng trưởng thậm chí còn lớn hơn của Apple.
2. Ford: CEO Alan Mulally
Năm 2006, Alan Mulally trở thành CEO của tập đoàn Ford, tiếp bước người tiền nhiệm William Clay Ford Jr.
Năm 2006 Alan Mulally trở thành CEO của Tập đoàn Ford, tiếp bước người tiền nhiệm William Clay Ford Jr. Đóng góp đầu tiên của Mulally cho ngành công nghiệp xe hơi thế giới đó là chứng tỏ một điều rằng một người ngoại đạo cũng có thể điều hành công ty ô tô tốt hơn những người đã từng làm việc trong ngành công nghiệp này nhiều thập kỷ. Thậm chí CEO mới của General Motors (GM) hiện nay cũng là một người mới bước vào ngành công nghiệp này. Mulally đã chứng tỏ ông là một nhà lãnh đạo tài năng.
Đóng góp lớn nhất của ông là đã đưa Ford vượt qua cuộc khủng hoảng khiến hàng loạt các công ty ôtô đi đến bờ vực phá sản. Ông đã làm được điều đó bằng cách đưa công ty vào hoạt động như một ngân hàng đầu tư, hành động chưa hề có tiền lệ. Mulally đã giúp tăng năng lực cho vay của Ford lên 23 tỷ USD ngay trước cơn suy thoái kinh tế. Mulally cũng đã có những động thái hỗ trợ 2 đối thủ chính của mình là GM và Chrysler. Bởi ông biết rằng nếu một trong 2 tập đoàn này sụp đổ thì Ford cũng sẽ chịu những tác động không nhỏ trong bối cảnh kinh tế lúc ấy.
Mulally cũng khuyến khích các kỹ sư của mình nhìn động cơ ôtô dưới nhiều góc độ khác nhau. Các kỹ sư của Ford đã sáng tạo ra công nghệ mới cho phép động cơ 4 xi lanh có được sức mạnh của động cơ 6 xi lanh và động cơ 6 xi lanh có sức mạnh của động cơ 8 xi lanh. Điều này có thể trở thành hiện thực mà không cần đến công nghệ hybrid hay diesel. Động cơ EconoBoost đã ra đời, và từ năm 2007 đã trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho các sản phẩm của công ty.
3. Amazon: CEO Jeff Bezos
Jeff Bezos là nhà sáng lập và cũng CEO của Amazon - công ty bán lẻ qua mạng.
Jeff Bezos là nhà sáng lập và cũng CEO của Amazon - công ty bán lẻ qua mạng. Năm 1994, thương mại điện tử còn là một lĩnh vực hết sức mới mẻ. Bezos cũng không đặt lợi nhuận lên trên hết. Ngay khi Amazon được thành lập ông đã xác định sẽ phải chịu lỗ trong 3-4 năm. Bezos cũng biết rằng cần mất nhiều thời gian để Amazon có thể đạt được mức doanh thu lớn để duy trì mô hình hoạt động dài hạn.
Sau đó, Bezos nhận thấy rằng Amazon có thể bán được nhiều sách hơn cho lượng khách hàng đang ngày càng lớn của mình. Thay vì bán những sản phẩm mình không hiểu rõ, ông cho nhiều công ty tiếp thị sản phẩm và dịch vụ của họ dựa trên cơ sở hạ tầng của Amazon. Cuối cùng Amazon tạo ra những công ty của chính mình để tiếp thị hàng hóa và dịch vụ, từ những sản phẩm làm đẹp, đồ nội thất cho đến đồ điện tử. Trong mỗi mảng, Bezos đều kiếm thêm doanh thu cho Amazon bằng cách cạnh tranh với mô hình cửa hàng truyền thống của các công ty đối thủ như Best Buy.
Phát minh lớn nhất của Amazon là thiết bị đọc sách điện tử Kindle. Những thiết bị điện tử và phát minh thiết bị đọc sách điện tử của Amazon đã khiến cho sách giấy trở nên ít cần thiết. Khách hàng có thể tải hàng nghìn quyển sách và mang theo mình với các thiết bị này. Mặc dù Amazon không tiết lộ doanh thu bán Kindle, nhưng giới phân tích dự đoán con số này là rất lớn và số lượng máy Kindle được bán ra sẽ còn tiếp tục tăng.
4. Berkshire Hathaway: CEO Warren Buffett
Buffett đã sáng lập quỹ đầu tư lớn nhất trên thế giới, và là người duy nhất đưa ra các quyết định đầu tư.
Buffett đã sáng lập quỹ đầu tư lớn nhất trên thế giới, và là người duy nhất đưa ra các quyết định đầu tư. Được mệnh danh là "nhà thông thái vùng Omaha", Buffet đã mua đứt một số công ty, và mua một số lượng lớn cổ phiếu của một số công ty khác. Đối với một số khác nữa thì ông cho vay nợ dưới dạng trái phiếu.
Hiện Buffett đang sỡ hữu một trong những công ty đường sắt lớn nhất thế giới, Burlington Northern - công ty mà ông đã tiến hành tư nhân hóa 2 năm trước. Hiện ông cũng kiểm soát một số công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm, trong đó có Geico và General Re. Ông cũng có cổ phần trong nhiều công ty của Mỹ và ông có thể bán chúng khi thấy đã lãi hoặc lỗ đủ mà không cần phải thông báo. Những công ty này bao gồm Coca Cola, American Express, CostCo, Bank of America, GE, MasterCard, và Walmart.
Buffett có thể nhanh chóng có được một vị trí trong những công ty đang gặp khó khăn, giống như trường hợp của Goldman Sachs hay Bank of America. Tài năng thiên phú của Buffet đó chính là đầu tư, nhưng đóng góp mang tính cách mạng của ông chính là tạo nên tập đoàn tư nhân do một người điều hành lớn nhất thế giới và hoạt động một cách hoàn hảo.
5. Facebook: CEO Mark Zuckerburg
Hiện nay Zuckerburg, người sáng lập ra mạng Facebook mới 27 tuổi.
Hiện nay Zuckerburg 27 tuổi. Khi mới 20, anh đã sáng lập mạng xã hội lớn nhất thế giới - Facebook với hơn 700 triệu thành viên và hầu hết các nhà phân tích cho rằng công ty này trị giá gần 100 triệu USD. Doanh thu năm 2010 của Facebook là gần 2 tỷ USD.
Đóng góp lớn nhất của Zuckerburg chính là hiểu được mong muốn được giao tiếp trực tuyến của cư dân toàn cầu. Người ta muốn được nhìn thấy bạn bè và người thân của mình hơn là các tin tức hay là kết quả tìm kiếm.
Zuckerburg đã phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt khi anh gia nhập vào thế giới kinh doanh mạng xã hội. Khi đó, MySpace là mạng xã hội lớn nhất thế giới. Nó thuộc sở hữu của công ty truyền thông lớn nhất thế giới - News Corp của Rupert Murdoch. Những điều anh đã làm được là một điều kỳ diệu. Trường hợp của anh cũng giống như Steve Jobs, người đã thiết kế và tiếp thị sản phẩm tốt hơn những sản phẩm cạnh tranh tương tự hiện có. Lý giải cho điều này là Facebook được sử dụng nhiều bởi những người trẻ ngay từ những ngày đầu thành lập. Mà những người trẻ có xu hướng sử dụng Internet nhiều hơn thế hệ già.
Zuckerburg cũng có khả năng làm được 2 điều khó nữa. Anh đã khiến cho người sử dụng Facebook chấp nhận sự thiếu riêng tư, đổi lại bằng việc sử dụng miễn phí mạng xã hội này. Và anh cũng đã biến Facebook trở thành một trang quảng cáo lớn nhất nước Mỹ bằng việc thuyết phục những nhà tiếp thị về một mạng xã hội thân thiện.
6. McDonald: CEO Jim Skinner
Skinner là CEO của McDonald kể từ năm 2004.
Skinner là CEO của McDonald kể từ năm 2004. Ông gia nhập vào chuỗi hàng ăn nhanh lớn nhất thế giới này từ năm 1971 với cương vị là một nhân viên quản trị. Sự phát triển của McDonald ngày càng mạnh kể từ khi Skinner trở thành giám đốc điều hành. Giá cổ phiếu năm 2005 của McDonald còn thấp hơn mức giá năm 1999. Trong 3 thập kỷ trước đó, từ 1974 đến 1998, giá cổ phiếu của công ty này đã tăng từ mức một USD lên 45 USD.
Skinner đã phải đối mặt với hàng loạt các đối thủ chưa từng có trước đây. Burger King đã giành thị phần về mảng kinh doanh hamburger truyền thống. Mảng kinh doanh của Pizza cũng nhanh chóng phát triển và cung cấp dịch vụ chuyển phát tận nhà. Từ những năm đầu thế kỷ 21, tàu điện ngầm đã trở thành địa bàn chính của đồ ăn nhanh. Một số chuỗi hàng ăn của Mexico cũng nhanh chóng phát triển. Và các đối thủ chính như KFC hay Dunkin Donuts cũng phát triển mạnh mẽ.
Khi đó, Skinner đã đưa ra 2 quyết định lớn. Đầu tiên là đưa bữa sáng trở thành bữa ăn chính cho khách hàng của McDonald. Thay vì bữa trưa và bữa tối như trước đó. McDonald đã đưa ra thực đơn phong phú cho bữa sáng và bán loại cà phê cao cấp với giá rẻ. Công ty này cũng bắt đầu mở cửa nhiều cửa hàng của mình suốt đêm để mọi người có thể ăn cả những bữa ăn đêm lẫn những bữa sáng sớm.
Thứ 2, Skinner xác định Trung Quốc là địa điểm vàng cho tăng trưởng của công ty, và thực đơn Mỹ của McDonald vẫn được thể thâm nhập được vào thị trường này. Thay vì bán đồ ăn Trung Quốc trong các cửa hàng của mình, McDonald bán hamburger và đồ rán. Hiện nay, Trung Quốc là một trong 3 thị trường trọng điểm của McDonald, bên cạnh Mỹ và châu Âu.
7. Twitter: CEO Jack Dorsey
Jack Dorsey thành lập Twitter năm 2006, ngay khi lĩnh vực mạng xã hội phát triển mạnh mẽ.
Jack Dorsey thành lập Twitter năm 2006, ngay khi lĩnh vực mạng xã hội phát triển mạnh mẽ. Việc cho phép mọi người kết nối với bạn bè và người thân trên toàn thế giới không có gì là mới. Nhưng đóng góp mang tính cách mạng của Twitter đó là cho phép người ta nói chuyện với nhau bằng lời. Twitter đã xây dựng một mạng xã hội với trên 200 triệu thành viên với những quyết định marketing khôn ngoan. Nó khuyến khích các chính trị gia và người nổi tiếng gia nhập Twitter. Đổi lại, họ có thể giao tiếp trực tiếp với hàng triệu người, thậm trí cả việc bầu chọn và bán vé xem phim.
Giao tiếp qua thư mất rất nhiều thời gian, qua điện thoại cũng lâu và tốn kém, còn email thì không trực tiếp. Twitter đã thay đổi tất cả những điều đó. Mọi người có thể giao tiếp với nhau một cách trực tiếp và học được cách để giao tiếp một cách ngắn gọn. Họ có thể sử dụng những thông điệp ngắn gọn này để giao tiếp với nhiều người hơn bao giờ hết.
Theo VNExpress
Cắm trại trên vách núi dựng đứng Cắm trại giữa lưng chừng vách đá dựng đứng ở độ cao 1.200 m ở đảo Baffin thuộc Canada có thể là ý tưởng điên rồ với những người bình thường, tuy nhiên các nhà thám hiểm dũng cảm lại cho rằng "không còn gì tốt hơn". Hình ảnh trên News. Các nhà leo núi treo mình giữa lưng chừng đỉnh Great Sail....