Ai đã đưa bản thú tội của ông Chấn cho bà Hà?
N.hân c.hứng mới Nguyễn Thị Thu Hà lấy đâu ra bản thú tội của ông Chấn để trình lên HĐXX phiên tòa xử Lý Nguyễn Chung?
N.hân c.hứng mới Nguyễn Thị Thu Hà lấy đâu ra “bản thú tội của ông Chấn” để trình lên HĐXX phiên tòa xử Lý Nguyễn Chung?
Bà Nguyễn Thị Thu Hà (53 t.uổi, trú tại xã Song Mai, TP Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang) – “n.hân c.hứng” mới – chính là tâm điểm của phiên tòa xét xử Lý Nguyễn Chung trong vụ án oan 10 năm của ông Nguyễn Thanh Chấn.
Sự xuất hiện của người phụ nữ này gây sự chú ý của dư luận vì trước khi phiên tòa xét xử Lý Nguyễn Chung diễn ra, bà Hà đã có đơn đến các cơ quan tiến hành tố tụng, báo chí về kiến nghị làm rõ việc Lý Nguyễn Chung có phải là h.ung t.hủ g.iết chị Nguyễn Thị Hoan hay không.
Bà Hà còn đề nghị tạm hoãn việc chi trả 7,2 tỉ đồng bồi thường oan sai cho ông Nguyễn Thanh Chấn.
Để rộng đường dư luận cũng như xem xét khách quan, toàn diện vụ án, TAND tỉnh Bắc Giang đã có trả lời việc xem xét đơn kiến nghị của bà Hà tại phiên tòa xét xử Lý Nguyễn Chung.
Tại phiên tòa diễn ra từ ngày 21-23/7, trong phần trả lời thẩm vấn HĐXX, bà Hà cho rằng, Chung không phải là h.ung t.hủ g.iết chết chị Hoan mà chính là ông Nguyễn Thanh Chấn. Bà Hà cho rằng, Chung nhận tội thay và ông Chấn đã được “chạy án”.
Theo bà Hà, phiên tòa ngày 6/3 vừa qua xét xử Lý Nguyễn Chung, bà Hà có ra nghe Chung khai về 2 chiếc nhẫn. Bà này cho rằng, chi tiết này vô lý vì 2 chiếc nhẫn đó đã được chị Hoan “cắm” cho bà này lấy 2 triệu đồng, trả nợ cho ông Chấn.
Bà Hà cho biết, giữa bà và chị Hoan có mối quan hệ làm ăn. Chị Hoan có kể với bà Hà về mối quan hệ với ông Chấn.
Buổi chiều cầm đồ chị Hoan có nói về việc mâu thuẫn và vay t.iền để trả cho ông Chấn thì ngay tối hôm đó b.ị g.iết.
Video đang HOT
Hơn nữa khi ngồi nói chuyện với bà Thân Thị Hải (người giúp ông Chấn minh oan), bà Hải có nói rằng lúc vào trại giam, chị có dặn ông Chấn nhất định không được nhận tội g.iết n.gười.
Khá bất ngờ khi trong tài liệu trình lên HĐXX phiên tòa Lý Nguyễn Chung, “n.hân c.hứng” mới đã đưa ra “bản thú tội của ông Nguyễn Thanh Chấn”.
Để bảo vệ quan điểm của mình, tại tòa, bà Hà đã đưa ra 14 căn cứ, đồng thời, để tăng tính thuyết phục, bà Hà còn nộp lên HĐXX “bản tự thú của ông Nguyễn Thanh Chấn” viết vào khoảng 1 tháng sau khi xảy ra vụ á.n m.ạng tại thôn Me năm 2003.
Liên quan đển “ bản thú tội của ông Chấn“, tại phiên tòa, chủ tọa đặt vấn đề: Tài liệu này, từ đâu bà Hà có? Bà Hà cho biết, bản tự thú này bà lấy từ một người trong gia đình bị hại.
Tuy nhiên tại tòa, những thành viên của gia đình bị hại đều bác bỏ và cho biết không cung cấp tài liệu này cho bà Hà.
Việc bà Hà đưa “bản tự thú của ông Chấn” vào trong các tài liệu của mình và nộp cho HĐXX vụ án Lý Nguyễn Chung nhằm làm tăng tính thuyết phục để bảo vệ quan điểm rằng: Ông Chấn mới là h.ung t.hủ thực sự.
Theo quy định của pháp luật, đối với tài liệu, hồ sơ của vụ án, những người có quyền tiếp cận và có loại tài liệu này là các cơ quan tiến hành tố tụng, các luật sư tham gia bào chữa và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đối với các đương sự, bị cáo trong vụ án.
Bà Nguyễn Thị Thu Hà không liên quan đến vụ án g.iết n.gười ở thôn Me cách đây 10 năm, nhưng tại sao lại có “bản tự thú của ông Chấn”?
Tại tòa, gia đình bị hại đã phủ nhận việc cung cấp tài liệu này cho bà Hà. Chính điều này đã khiến dư luận đặt câu hỏi: Ai là người cung cấp cho “n.hân c.hứng” mới “bản tự thú của ông Nguyễn Thanh Chấn”. Việc cung cấp tài liệu này cho “n.hân c.hứng” mới với mục đích gì?
Liên quan đến l.ời k.hai của bà Hà tại tòa, tại phần tuyên án, chủ tọa cho rằng lời trình bày của bà Hà mâu thuẫn với một số n.hân c.hứng và l.ời k.hai của Chung về chiếc nhẫn.
HĐXX kiến nghị cơ quan cảnh sát điều tra xác minh l.ời k.hai của bà Hà.
Chưa đủ căn cứ xử lý hình sự “n.hân c.hứng” mới
Luật sư Giang Hồng Thanh – Văn phòng Luật sư Giang Thanh cho biết: Những l.ời k.hai của bà Hà đối với những sự việc trên là không có cơ sở pháp lý, nhưng vẫn chưa thể quy kết bà Hà đã có hành vi vu khống đối với ông Nguyễn Thanh Chấn và bà Thân Thị Hải.
Điều 122 Bộ luật hình sự quy định về tội Vu khống như sau: “Người nào bịa đặt, lan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và t.ố c.áo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.”
Đối với cấu thành của tội danh này, hành vi của người phạm tội phải là “biết rõ” điều mà họ nói ra là sai sự thật nhưng họ vẫn nói, nghĩa là mặc dù biết sự thật là A nhưng vẫn nói là B, thì họ mới có thể bị xử lý về tội danh này.
Theo VOV
455 bị cáo được Toà cấp sơ thẩm cho hưởng án treo sai luật
Trong 3 năm (2011-2014), công tác xét xử còn để xảy ra những thiếu sót, sai phạm trong áp dụng, quyết định hình phạt, cho bị cáo hưởng án treo; xảy ra 01 trường hợp kết án oan người vô tội...
Theo kết quả giám sát về "Tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự (TTHS) và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động TTHS theo quy định của pháp luật" của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), trong 3 năm (2011 - 2014), có 1.653 bị cáo bị cấp phúc thẩm hủy án để điều tra, xét xử lại, trong đó, chưa đủ căn cứ kết tội 629 bị cáo, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội 186 bị cáo, sai tội danh 110 bị cáo, áp dụng hình phạt không đúng 190 bị cáo.
Có một số trường hợp có đủ căn cứ kết tội bị cáo, nhưng Toà án (TA) cấp sơ thẩm lại tuyên bị cáo không phạm tội. Trong kỳ, có 11 bị cáo, TA cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không phạm tội, nhưng TA cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm xét xử theo hướng có tội. Trong số 47 bị cáo TA sơ thẩm tuyên không phạm tội thì 43 trường hợp bị kháng nghị phúc thẩm, trong đó 32 trường hợp TA cấp phúc thẩm hủy án để điều tra, xét xử lại và tuyên 14 bị cáo có tội. TA cấp phúc thẩm sửa tội danh 228 bị cáo; một số địa phương tỷ lệ này khá cao. Điển hình như: Tại Bình Phước, có 41 vụ bị TA cấp phúc thẩm hủy để điều tra, xét xử lại, trong đó cấp tỉnh 04 vụ, cấp huyện 37 vụ; 06 vụ sai tội danh, 24 vụ vi phạm tố tụng...; chưa đủ căn cứ để kết tội bị cáo 04 vụ. VKS kháng nghị phúc thẩm 100 vụ/163 bị cáo, đã xét xử 78 vụ/115 bị cáo, trong đó TA cấp phúc thẩm đã chấp nhận 58 vụ/ 89 bị cáo.
Một số bản án, quyết định của TA còn xác định sai khung hình phạt, áp dụng không đúng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự tại Điều 46 và Điều 48 Bộ luật Hình sự (BLHS) về các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Có trường hợp TA áp dụng hình phạt quá nặng, không phù hợp với chính sách hình sự trong BLHS. Điển hình như vụ Vũ Văn Thành cùng đồng phạm (ở Tiên Lãng, Hải Phòng) đều là học sinh, cướp giật tài sản giá trị nhỏ nhặt (01 chiếc mũ trị giá 30.000 đồng, 01 chiếc nón lá trị giá 60.000 đồng) bị TA hai cấp ở Hải Phòng tuyên phạt tù các bị cáo tổng cộng 92 tháng về tội cướp giật tài sản. Vụ án này đã bị TA cấp giám đốc thẩm hủy án để xét xử lại và sau đó, hầu hết các bị cáo được hưởng án treo. Ngược lại, có những trường hợp quyết định hình phạt quá nhẹ hoặc cho hưởng án treo không đúng pháp luật đối với bị cáo phạm tội về kinh tế, chức vụ, tham nhũng (như vụ Nguyễn Đại Tuyên ở Quảng Bình tham ô gần 96 triệu đồng và gây thất thoát 212 triệu đồng được hưởng án treo).
Đáng chú ý, có 455 bị cáo được TA cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, sau đó bị TA cấp phúc thẩm chuyển sang hình phạt tù do vi phạm các điều kiện về án treo quy định tại Điều 60 BLHS quy định về án treo; ấn định thời gian thử thách trái với hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC; không giao bị cáo được hưởng án treo cho chính quyền địa phương nào giám sát giáo dục... Một số trường hợp, cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm để giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo hưởng án treo thiếu căn cứ, nhất là đối với các vụ án về kinh tế, chức vụ, tham nhũng.
Bên cạnh đó, việc xem xét, giải quyết đơn giám đốc thẩm còn chậm, trong đó có phần trách nhiệm của VKS. Đáng lưu ý, có những trường hợp để quá lâu như: Vụ Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang) bị oan xảy ra cách đây 10 năm. Mặc dù trong nhiều năm,Nguyễn Thanh Chấn và gia đình liên tục gửi đơn kêu oan nhưng chỉ khi h.ung t.hủ Lý Nguyễn Chung ra đầu thú năm 2014 thì vụ án này mới được xem xét theo trình tự tái thẩm (thực chất là giám đốc thẩm), hủy bản án đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại.
Theo đ.ánh giá của UBTVQH, nguyên nhân dẫn đến các trường hợp oan, sai thuộc trách nhiệm TA chủ yếu do trình độ, năng lực của một bộ phận Thẩm phán còn hạn chế. Quá trình chuẩn bị xét xử, một số Thẩm phán không nghiên cứu kỹ hồ sơ, thiếu phân tích, đ.ánh giá các chứng cứ vụ án một cách khách quan, toàn diện; chất lượng tranh tụng tại nhiều phiên tòa còn hạn chế, hình thức; Thẩm phán còn quá tin vào tài liệu hồ sơ, chưa chủ động làm rõ các tình tiết mới phát sinh; chưa coi trọng ý kiến bào chữa của bị cáo và luật sư; năng lực áp dụng pháp luật và trách nhiệm trong xét xử của một số Thẩm phán còn yếu; có trường hợp còn tiêu cực, cố ý ra bản án, quyết định hình sự trái pháp luật.
Trong kỳ, số bản án, quyết định phúc thẩm bị kháng nghị và đã xét xử giám đốc thẩm 125 vụ/210 bị cáo. TA cấp giám đốc thẩm hủy án để điều tra, xét xử lại 184 bị cáo, trong đó sửa tội danh 16 bị cáo, áp dụng hình phạt không đúng 95 bị cáo, chưa đủ căn cứ kết tội 25 bị cáo, dấu hiệu bỏ lọt tội phạm 10 bị cáo, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự, sai về phần dân sự 38 bị cáo. 58 bị cáo TA cấp phúc thẩm cho hưởng án treo bị TA cấp giám đốc thẩm hủy án để điều tra xét xử lại, chiếm tỷ lệ 0,87%. Trong số 06 bị cáo được TA phúc thẩm tuyên không phạm tội thì có đến 05 trường hợp bị xem xét theo trình tự giám đốc thẩm, hủy án phúc thẩm để điều tra, xét xử lại với cả 05 trường hợp.
Theo Thu Hằng
Báo Đảng Cộng sản Việt Nam
Bị can trong án oan Nguyễn Thanh Chấn không có đồng phạm Liên quan tới vụ trọng án xảy ra tại thôn Me, xã Nghĩa Trung (H.Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) khiến ông Nguyễn Thanh Chấn (54 t.uổi) phải ngồi tù oan hơn 10 năm, ngày 18.5, Cơ quan CSĐT Bộ Công an cho biết vừa hoàn tất kết luận điều tra bổ sung. Lý Nguyễn Chung tại trại tạm giam - Ảnh: Nam Anh...