9 tháng tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 9,52%
Đối với TP. Hồ Chí Minh, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn thành phố đến đầu tháng 9 tăng 17,91% so với cùng kỳ năm trước và tăng 10,92% so với đầu năm.
Báo cáo của Tổng Cục Thống kê cho biết, tính đến ngày 20/9/2018, tổng phương tiện thanh toán tăng 8,74% so với cuối năm 2017 (cùng kỳ năm 2017 tăng 9,59%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 9,15% (cùng kỳ năm 2017 tăng 10,08%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 9,52% (cùng kỳ năm 2017 tăng 11,02%).
Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng nói chung tương đối ổn định, mặc dù một số ngân hàng đã có động thái tăng lãi suất huy động nhưng mức độ tăng nhỏ, không thể hiện xu hướng tăng của thị trường.
Hiện mặt bằng lãi suất huy động đồng Việt Nam phổ biến ở mức 0,6%-1%/năm đối với t.iền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,3%-5,5%/năm đối với t.iền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 5,3%-6,5%/năm đối với t.iền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn trên 12 tháng ở mức 6,5%-7,3%/năm.
Lãi suất cho vay đồng Việt Nam phổ biến khoảng 6%-9%/năm đối với ngắn hạn và 9%-11%/năm đối với trung và dài hạn; đối với khách hàng tốt, lãi suất cho vay ngắn hạn từ 4%-5%/năm. Cơ cấu tín dụng tiếp tục chuyển hướng theo hướng tích cực tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên, các dự án lớn, trọng tâm trọng điểm theo chủ trương của Chính phủ.
Trong khi đó, báo cáo của Cục Thống kê TP.HCM cho biết, tổng vốn huy động đến đầu tháng 9 đạt 2.144 ngàn tỷ đồng, tăng 0,39% so với tháng trước (chỉ số này của tháng trước: -0,01%); tăng 11,2% so với tháng cùng kỳ. Trong đó, vốn huy động của các Ngân hàng thương mại cổ phần chiếm 52,16% tổng vốn huy động, tăng 11,39% so tháng cùng kỳ.
T.iền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng 48,26% tổng vốn huy động, tăng 4,1% so với tháng cùng kỳ. Theo loại t.iền gửi, vốn huy động bằng ngoại tệ chiếm 11,23%, tăng 4,62% so tháng cùng kỳ. Vốn huy động VNĐ tiếp tục tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng nguồn vốn, chiếm 88,77%; tăng 12,09% so tháng cùng kỳ.
Video đang HOT
Tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn thành phố đến đầu tháng 9 đạt 1.954 ngàn tỷ đồng, tăng 17,91% so với tháng cùng kỳ và tăng 10,92% so với 31/12/2017. Trong đó, dư nợ tín dụng của các Ngân hàng thương mại cổ phần đạt 1.023 ngàn tỷ đồng, chiếm 52,38% tổng dư nợ, tăng 14,71% so tháng cùng kỳ năm trước.
Dự ước dư nợ tín dụng tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao so với các năm trước, giúp cho doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận nguồn vốn vay, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
Theo loại t.iền, dư nợ bằng ngoại tệ đạt 169 ngàn tỷ đồng, chiếm 8,66% tổng dư nợ, tăng 7,36% so với cùng kỳ. Dư nợ tín dụng bằng VNĐ đạt 1.784 ngàn tỷ đồng, chiếm 91,34% tổng dư nợ, tăng 19,02% so với tháng cùng kỳ.
HỒNG QUÂN
Theo Trí Thức Trẻ
FED tăng lãi suất và ngày cũ của tương lai
Những tác động đối với Việt Nam đã được báo trước, phần nào thấy trước, còn lại là ứng xử.
Vào thời điểm này cách đây bốn năm, thông tin Việt Nam định hướng tham gia Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) - ngân hàng do Trung Quốc khởi xướng thành lập - là một sự kiện kinh tế được chú ý.
Khi đó, có quan ngại bên lề, Việt Nam tham gia AIIB, nền kinh tế sẽ có thêm lệ thuộc nào đó vào Trung Quốc.
Nhưng, ở góc nhìn khác, là quốc gia có hoạt động vay vốn thường xuyên và lâu dài từ các định chế tài chính quốc tế, việc có thêm đầu mối, đa dạng thêm nguồn tiếp cận (có thêm AIIB) được xem là có lợi cho Việt Nam.
Có lợi, từ bốn năm trước đã được tính toán: Việt Nam dần dần vượt qua các cấp độ xóa đói giảm nghèo, thu nhập bình quân đầu người tăng lên, các nguồn vốn ưu đãi sẽ dần ít đi. Việc có thêm đầu mối tiếp cận vay vốn, có thêm cơ hội tìm kiếm nguồn có chi phí thấp hơn.
Tương lai dự tính từ bốn năm trước đang dần trở thành ngày cũ hiện nay. Từ năm 2017, các bộ ngành chức năng đã chính thức đề cập, vốn vay ưu đãi từ các tổ chức quốc tế dành cho Việt Nam sẽ dần chuyển qua thương mại hơn, và đây là năm bản lề.
Ngày 26/9/2018, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) lần thứ ba trong năm tăng lãi suất. Họ dự báo sẽ có thêm một lần tăng nữa vào cuối năm nay, và ba lần trong năm 2019.
Cũng như bắt đầu tư cuối 2015, đến nay, các lần tăng lãi suất của FED đều được báo trước, dự báo trước về mức độ và thời điểm. Việc cụ thể hóa mỗi quyết định như ngày cũ của tương lai vậy, đã được biết trước và thậm chí giới chuyên gia cho rằng thị trường đều chủ động hấp thụ và phản ánh.
Ngày cũ của tương lai tại Việt Nam thì sao, từ lộ trình FED tăng lãi suất?
Như trên, với nguồn vốn vay ưu đãi dần hạn chế đi và chuyển sang thương mại, ngân khố quốc gia có thể chịu ảnh hưởng với chi phí đi vay sẽ đội lên. 0,25 điểm cơ bản mỗi lần FED tăng lãi suất có vẻ nhỏ, nhưng cộng dồn từ cuối 2015 rồi đến cả dự kiến ba lần tăng 2019 là đáng chú ý.
Mới đây, Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia công bố báo cáo về tình hình tài khóa và ngân sách Việt Nam, trong đó phân tích cụ thể tác động tốn kém hơn từ lộ trình tăng lãi suất của FED.
Báo cáo đó cũng lưu ý cả ở hoạt động vay vốn nước ngoài của các doanh nghiệp. Đặc biệt, dư nợ vay nước ngoài ngắn hạn của các doanh nghiệp và tô chức tín dụng theo hình thức tự vay tự trả đã tăng đột biên trong năm 2017...
Với thị trường nói chung, giới đầu tư chủ yếu vẫn nhìn vào diễn biến tỷ giá USD/VND và biến động trên thị trường chứng khoán. Đây cũng là hai điểm mà ông Ngô Đăng Khoa, Giám đốc khối nguồn vốn và kinh doanh t.iền tệ của HSBC Việt Nam, nhấn mạnh trong nhận định về tác động từ lộ trình FED tăng lãi suất.
Cụ thể, chuyên gia HSBC cho rằng, chính sách t.iền tệ dần thắt chặt của FED và đồng Nhân dân tệ yếu hơn sẽ tiếp tục là thách thức chính đối với VND trong ngắn hạn.
Tuy nhiên, đồng VND mất giá quá nhanh sẽ mang lại nhiều bất lợi về tính ổn định cho nền kinh tế Việt Nam như hiệu ứng lan tỏa lên kỳ vọng lạm phát, vốn đã và đang tiến nhanh đến mức mục tiêu 4% của Chính phủ; giảm triển vọng tái đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; kìm hãm niềm tin nhà đầu tư và dòng vốn FDI; cản trở quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước khi biến động VND ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán.
Những khía cạnh tác động đó đã được dự báo trước, lộ trình và mức độ FED tăng lãi suất cũng đã được báo trước. Việc còn lại là ứng xử của chính sách vĩ mô của Việt Nam, để mềm hóa, giảm thiểu những tác động bất lợi trong khả năng có thể, qua đó chủ động tạo "ngày cũ của tương lai" do đề bài đã được biết trước.
Chỉ có điều, lâu nay, tại Việt Nam thì ngược lại. Mỗi lần điều chỉnh lãi suất hoặc tỷ giá, hoặc quyết sách lớn, thị trường thường chỉ được biết sau khi đã có quyết định, sau đó mới đến lượt thị trường hấp thụ (có trường hợp phân vân) và phản ánh, mà trước đây vẫn có những cú sốc. Và đây cũng là một kiểu ngày cũ chưa thấy có nhiều thay đổi cho tương lai.
Theo Người đồng hành
Doanh nghiệp địa ốc tìm cách giảm phụ thuộc vốn ngân hàng Tín dụng vào bất động sản bị siết, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn xuống thấp, nhiều doanh nghiệp đang tính cách huy động tài chính, bớt giảm phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng. Tín dụng ngày càng hẹp Thông tư 19/2017 của Ngân hàng Nhà nước quy định kể từ ngày 1/1/2019, các tổ chức tín dụng,...