738 doanh nghiệp hai năm liên tiếp thuộc danh sách V.1000
Theo công bố của Tổng cục Thuế, Viettel tiếp tục là doanh nghiệp đứng đầu danh sách 1.000 doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp lớn nhất năm 2019 (V.1000). Có 738 doanh nghiệp hai năm liên tiếp thuộc danh sách V.1000.
Tập Đoàn công nghiệp – Viễn thông Quân đội (Viettel) tiếp tục đứng đầu danh sách 1.000 doanh nghiệp nộp thuế TNDN lớn nhất năm 2019. Ảnh: TL.
Tiêu chí xác định danh sách xếp hạng
Tổng cục Thuế cho biết, tiêu chí để xác định danh sách xếp hạng 1.000 doanh nghiệp đóng thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) lớn nhất trong năm 2019 là doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật Việt Nam, doanh nghiệp nước ngoài, các tổ chức khác có hoạt động sản xuất kinh doanh, có thu nhập chịu thuế TNDN theo quy định của Luật thuế TNDN.
Mức nộp thuế TNDN là tổng số tiền thuế TNDN mà doanh nghiệp đã nộp ngân sách nhà nước trong năm 2019. Với doanh nghiệp có các chi nhánh, đơn vị trực thuộc (được cấp mã số thuế đơn vị trực thuộc 13 số) thì bao gồm số tiền thuế TNDN đã nộp của trụ sở chính và các chi nhánh, đơn vị trực thuộc.
Đối với các tập đoàn, tổng công ty thì công ty mẹ, mỗi công ty con, mỗi công ty thành viên trong tập đoàn, tổng công ty đều là một “doanh nghiệp” độc lập trong danh sách xếp hạng.
Trường hợp, doanh nghiệp nộp thuế TNDN lớn trong năm 2019, nhưng đến thời điểm xác định để công khai đã, hoặc đang làm thủ tục đóng mã số thuế với các lý do: sáp nhập vào doanh nghiệp khác (theo quy định hiện hành doanh nghiệp bị sáp nhập phải đóng mã số thuế), giải thể, ngừng hoạt động thì loại ra khỏi danh sách.
Tổng cục Thuế cho biết, danh sách xếp hạng V.1000 trên cơ sở mức nộp thuế TNDN vào ngân sách nhà nước của các doanh nghiệp hàng năm, không xem xét đến tính tuân thủ pháp luật thuế.
Đồng thời, danh sách xếp hạng V.1000 không nhằm mục đính tôn vinh doanh nghiệp thực hiện tốt pháp luật thuế. Trong quá trình hoạt động, nếu doanh nghiệp bị cơ quan thuế, cơ quan có thẩm quyền phát hiện sai phạm thì tùy theo mức độ sẽ bị xử lý vi phạm theo đúng quy định.
Video đang HOT
738 doanh nghiệp vào danh sách V.1000 hai năm liên tiếp
Theo kết quả thống kê của Tổng cục Thuế, tổng số thuế TNDN đã nộp của các doanh nghiệp trong danh sách V.1000 năm 2019 chiếm 61,5% tổng thu NSNN về thuế TNDN, bằng 118,1% so với số đã nộp các doanh nghiệp trong danh sách V.1000 năm 2018.
Trong danh sách V.1000 năm 2019 có 738 doanh nghiệp có hai năm liên tiếp thuộc danh sách V.1000 của năm 2019 và V.1000 của năm 2018; có 485 doanh nghiệp có 4 năm liên tiếp thuộc danh sách V.1000 của năm 2019, 2018, 2017 và 2016.
Trong danh sách V.1000 năm 2019 có 262 doanh nghiệp trong danh sách V.1000 năm 2018 bị loại ra, đồng thời có 262 doanh nghiệp bổ sung vào danh sách V.1000 năm 2018.
Qua rà soát 262 doanh nghiệp bị loại ra khỏi V.1000 năm 2019 là do trong năm 2018 số thuế của các đơn vị này phát sinh từ các hoạt động không thường xuyên như: Chuyển nhượng bất động sản, chuyển nhượng vốn, hoạt động khác; doanh nghiệp nộp cho quyết định truy thu của các cơ quan có thẩm quyền; doanh nghiệp bị sáp nhập, chấm dứt hoạt động hoặc chuyển đổi mô hình tổ chức…
Số còn lại là do nguyên nhân số nộp năm 2019 nhỏ hơn số nộp năm 2018 và không đạt ngưỡng V.1000 năm 2019; số thuế TNDN theo quyết toán năm 2019 lớn nhưng doanh nghiệp thực hiện nộp trong năm 2020.
Số thuế nộp thừa từ năm 2018 chuyển sang bù trừ với số phát sinh năm 2019 nên số thuế nộp trong năm 2019 ít; số thuế năm 2018 lớn do nộp cho cả thuế TNDN của năm 2017 chưa nộp; doanh nghiệp giảm quy mô, giảm hiệu quả hoạt động sản xuât kinh doanh; dự án đã hoàn thành; năm 2019 doanh nghiệp được miễn giảm thuế;…
Đối với 262 doanh nghiệp bổ sung vào V.1000 năm 2019 do các nguyên nhân như: doanh nghiệp nộp cho hoạt động phát sinh không thường xuyên (chuyển nhượng bất động sản, chuyển nhượng vốn, hoạt động khác); nộp cho quyết định truy thu của các cơ quan có thẩm quyền trong năm 2019; doanh nghiệp tính đến 2019 đã hết thời gian hưởng ưu đãi, miễn giảm; hết thời kỳ chuyển lỗ bắt đầu phải nộp thuế TNDN từ năm 2019.
Một số doanh nghiệp tăng vốn, mở rộng hoạt động kinh doanh tăng hiệu quả hoạt động dẫn đến tăng doanh thu, thu nhập 2019, doanh nghiệp hoàn thành dự án, nghiệm thu công trình đi vào hoạt động chính thức./.
Doanh nghiệp kiệt sức, mong chờ gói giải cứu mới
Hầu hết doanh nghiệp vẫn đang chịu ảnh hưởng lớn từ dịch Covid 19. Doanh thu giảm sút mạnh, mất cân đối dòng tiền, sức khỏe ngày càng kiệt quệ và giảm niềm tin.
Kiệt sức
Ông Chu Tiến Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM, cho biết, khảo sát gần đây của Hiệp hội chỉ có khoảng 5% doanh nghiệp đã trở lại trạng thái bình thường, 9% vượt qua những khó khăn bước đầu,... Số doanh nghiệp khó khăn và rất khó khăn vẫn chiếm tới 84%, nguyên nhân chủ yếu do thiếu vốn, đứt gãy các chuỗi cung ứng, bị thu hẹp thị trường, cắt giảm lao động vì khó khăn...
Cuộc khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) về tác động của Covid-19 mới đây cũng cho thấy, hơn 68% doanh nghiệp bị giảm doanh thu, gần 50% thiếu hụt dòng tiền. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng đối diện với khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu đầu vào (28,6%), khó khăn duy trì sản xuất đơn hàng đã ký (23,1%)...
Còn theo khảo sát lần thứ ba do Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) tiến hành giữa tháng 8/2020, sau khi đợt dịch thứ hai bùng phát trở lại, sức khoẻ doanh nghiệp thêm "kiệt quệ". 20% số DN phải dừng hoạt động, 76% không cân đối được thu chi, 2% đã giải thể và chỉ 2% tạm thời chưa bị ảnh hưởng bởi đại dịch.
Những gói hỗ trợ tới đây cần hướng tới củng cố niềm tin, tạo động lực cho doanh nghiệp
Trong khi đó, các gói hỗ trợ dường như ngoài tầm với của hầu hết các doanh nghiệp. Theo Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM, có tới 76% số doanh nghiệp tham gia khảo sát cho biết, chưa tiếp cận được các gói hỗ trợ của nhà nước. Chỉ có 10% doanh nghiệp đã được ngân hàng cơ cấu lại nợ, giãn nợ, hạ lãi suất cho vay, 5% doanh nghiệp được tạm ngừng đóng quỹ hưu trí, chưa có doanh nghiệp nào được vay gói lãi suất 0% để trả lương người lao động.
VCCI đánh giá các gói an sinh xã hội thực hiện chậm, mới chỉ đạt 20-25% kế hoạch. Còn gói tiền tệ - tín dụng (giãn nợ, khoanh nợ, giảm lãi suất,... ) đạt được trên 50%. Như vậy, nhiều doanh nghiệp chưa được hỗ trợ kịp thời.
Các doanh nghiệp phàn nàn, nhiều gói hỗ trợ đưa ra những tiêu chí bất hợp lý như không có nợ xấu, phải trả 50% bảo hiểm, phải chứng minh hết tiền... vì vậy nằm ngoài tầm với của họ. Chẳng hạn như gói cho vay lãi suất 0% để trả lương người lao động, lo thủ tục để vay được gói này còn khó hơn vay ngân hàng bình thường.
Chờ đợi gói giải cứu mới
Còn số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy 9 tháng đầu năm 2020 có tới 78.306 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Trong đó, có 38.629 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 81,8% so với cùng kỳ năm 2019, cao hơn gấp 3,7 lần so với mức tăng trung bình 21,9% của giai đoạn 2015-2019. Tuy số lượng doanh nghiệp đã hoàn tất giải thể, hoặc chờ giải thể không lớn hơn nhiều so với năm trước, nhưng việc có quá nhiều doanh nghiệp đang ở trạng thái "ngủ đông" cho thấy sự ảnh hưởng lớn và dai dẳng của đại dịch Covid-19 đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Hầu hết doanh nghiệp vẫn đang chịu ảnh hưởng lớn từ dịch Covid 19.
Đây là thời điểm các doanh nghiệp đang rất cần sự hỗ trợ, để có thể tồn tại và vượt qua khó khăn. Trước thông tin Chính phủ đang tính toán cho gói hỗ trợ đợt 2, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, cần ban hành sớm cùng những giải pháp hiệu quả. Những gói hỗ trợ tới đây cần hướng tới củng cố niềm tin, tạo động lực cho doanh nghiệp và quá trình làm chính sách phải thực sự đặt mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp là ưu tiên hàng đầu.
Ngày càng nhiều kiến nghị, đề xuất hỗ trợ doanh nghiệp vay, với lãi suất từ 0-3% để vượt qua khó khăn do đại dịch. Chính phủ có thể phát hành trái phiếu với kỳ hạn 5-10 năm để hút tiền về, sau đó cho các doanh nghiệp vay lại đúng bằng lãi suất phát hành. Bởi hiện nay, nhiều đợt phát hành trái phiếu Chính phủ, lãi suất còn dưới 2%/năm. Trong đó, đối tượng mua trái phiếu Chính phủ nhiều nhất, vẫn là các ngân hàng thương mại, do tăng trưởng tín dụng còn thấp, thanh khoản dồi dào.
Chuyên gia Cấn Văn Lực cho rằng, Chính phủ cần tập trung tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ và triển khai hiệu quả các gói hỗ trợ hiện tại và sớm xây dựng một số chính sách, gói hỗ trợ bổ sung (giai đoạn 2) giúp người dân, doanh nghiệp vượt khó với quy mô 2,5% GDP nữa.
Nhiều chuyên gia cũng đề xuất gói hỗ trợ thuế thứ 2, như giảm thuế thu nhập doanh nghiệp 30% cho tất cả các doanh nghiệp và giảm 50% thuế giá trị gia tăng để kích cầu tiêu dùng.
Theo các chuyên gia kinh tế, điều quan trọng nhất hiện nay không hẳn là tăng trưởng GDP bao nhiêu, giữ bội chi ngân sách thế nào mà phải đảm bảo sự tồn tại của lực lượng doanh nghiệp, đang chịu tổn hại nặng nề vì dịch bệnh. Nếu doanh nghiệp "chết" hàng loạt thì khó khăn vô cùng, hệ lụy là tỷ lệ thất nghiệp gia tăng gây áp lực lớn cho xã hội.
Bộ Tài chính nhận định, mặc dù thu ngân sách năm 2020 giảm so với dự toán nhưng dư địa tài khoá lớn, khả năng bù đắp và đặc biệt bù đắp tăng chi cho đầu tư phát triển và phòng chống dịch hoàn toàn có dư địa.
Giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp: Cần nhưng chưa đủ Trong bối cảnh nhiều doanh nghiệp bị ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch COVID-19 khiến doanh thu và lợi nhuận sụt giảm mạnh, việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp được cộng đồng doanh nghiệp đón nhận khá tích cực. Đây được xem là động thái "tiếp sức" cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa bị ảnh hưởng...