7 tướng Pháp và 1 Điện Biên
Kể từ thời điểm 23/9/1945 đến chiến thắng Điện Biên Phủ 7/5/1954 rồi ký kết hiệp định Genève kết thúc chiến tranh, quân đội Pháp đã cử sang chiến trường Đông Dương 7 vị tướng nhưng tất cả đều thất bại.
Cuộc kháng chiến chống Pháp chứng kiến những vị tướng 4-5 sao thất thủ, được đẩy đến cao trào bằng trận quyết chiến ở Điện Biên Phủ.
7 tướng Pháp thất trận
Đầu tiên là tướng 4 sao Philippe Leclerc nhậm chức tháng 8/1945, đến tháng 6/1946 thì bị triệu hồi vì thất bại trong chiến lược đánh nhanh thắng nhanh.
Navarre – Tướng tổng chỉ huy quân đội Pháp ở chiến trường Đông Dương 1953-1954. Ảnh tư liệu
Thay tướng Philippe Leclerc là tướng 4 sao Etienne Valluy nhưng chỉ đến tháng 5/1948 thì tướng 4 sao này lại bị triệu hồi vì thất bại trong chiến dịch Thu Đông 1947.
Người thay thế tiếp tục là một tướng 4 sao C.Blaijat nhưng đến tháng 9/1949 (1 năm sau) thì Pháp lại triệu hồi vì không thực hiện được chiến lược “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Vịêt”.
Sau đó tướng 4 sao M. Corgente được bổ nhiệm, sang tiếp quản chiến trường Đông Dương. Nhưng tên tướng này bị một đòn đau trong chiến dịch Biên giới và bị thay thế vào tháng 12/1950 bởi tướng 5 sao Delattre De Tassigny.
Sau khi để thua trận và không đạt được mục đích chính phủ Pháp đề ra, tướng Delattre De Tassigny bị thay thế bởi tướng 4 sao Raul Salan.
Dưới sự chỉ huy của tướng Salan, quân đội Pháp thất bại trong 3 chiến dịch liên tiếp (Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào), tháng 5/1953, Chính phủ Pháp triệu hồi tướng Salan. Đây cũng là tướng “trụ” được lâu nhất trên chiến trường Đông Dương (từ tháng 12/1951 đến tháng 5/1953).
Video đang HOT
Sau đó, tướng 4 sao Henri Navarre được Pháp bổ nhiệm làm tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở chiến trường Đông Dương nhằm tìm kiếm một chiến thắng quân sự quyết định, làm cơ sở cho một cuộc thảo luận hòa bình trên thế mạnh tại hội nghị Genève.
Tuy nhiên, Navarre lại là tướng bị thua đậm nhất ở khắp các chiến trường Đông Dương. Trận thua đau nhất là ở chiến trường Điện Biên Phủ. Sau khi bị thua ở đây, tháng 6/1954, tướng 5 sao Ely được cử sang thay tướng Navarre nhưng một tháng sau thì hiệp định Genève đã được ký nên tướng Ely chỉ làm nhiệm vụ “thu quân về nước”.
Lời thách thức đối với Tướng Giáp
Sau khi được bổ nhiệm, tướng Navarre xây dựng kế hoạch hành động với 2 bước. Bước thứ nhất: Thu Đông 1953 và Xuân 1954 giữ thế phòng ngự ở miền Bắc, tập trung một lực lượng cơ động lớn ở đồng bằng Bắc Bộ để đối phó với cuộc tiến công của Việt Minh; tiến công chiến lược ở miền Nam để chiếm đóng 3 tỉnh ở đồng bằng Liên khu 5; đồng thời đẩy mạnh việc mở rộng Quân đội Quốc gia Việt Nam và xây dựng một đội quân cơ động lớn đủ sức đánh bại các đại đoàn chủ lực Việt Minh.
Bước thứ hai: Từ Thu Đông năm 1954, sau khi đã hoàn thành những mục tiêu trên, sẽ dồn toàn lực ra Bắc, chuyển sang tiến công chiến lược trên chiến trường chính giành thắng lợi lớn về quân sự, buộc Việt Minh phải chấp nhận điều đình theo những điều kiện của Pháp, nếu khước từ, quân cơ động chiến lược của Pháp sẽ tập trung mọi nỗ lực loại trừ chủ lực Việt Minh.
Từng đoàn xe thồ, từng đoàn dân công vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. Cụ Nguyễn Việt cho rằng cái mà Pháp không có trong cuộc chiến ở Việt Nam là tinh thần đoàn kết, là sức mạnh của lòng dân. Ảnh tư liệu
Ngày 20/11/1953, Pháp cho quân nhảy dù vào chiếm đóng Điện Biên Phủ. Đại tá Nguyễn Sỹ Động – nguyên trưởng Tiểu ban tác chiến Trung đoàn 141 trong trận Him Lam – cho biết sau khi xây dựng tập đoàn cứ điểm và ổn định tình hình, quân Pháp rải truyền đơn thách thức Tướng Giáp với nội dung: “Gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Nghe tin ngài đưa nhiều quân lên nghênh chiến và có ý định vào ăn Tết ở Mường Thanh, rất sẵn sàng đón tiếp ngài”.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, về quân số, tỷ lệ giữa ta và địch là: 3,3/1; súng pháo: 3,1/1. Riêng lực lượng không quân, Pháp có 1 phi đội máy bay 14 chiếc. Ta: 0
Dù chênh nhau là vậy song cụ Nguyễn Việt – nguyên trưởng phòng Trinh sát (Cục Quân báo – Bộ Tổng tham mưu) cho rằng Pháp toàn cử tướng 4-5 sao sang nhưng “thất bại xoành xoạch” vì ta yếu hơn nên xác định trường kỳ kháng chiến, chiến lược đúng đắn bài bản, còn Pháp đi xâm lược nên muốn nhanh, dẫn đến chủ quan vì “bản chất của đế quốc là như vậy”.
Chiến thắng Điện Biên Phủ có nhiều yếu tố, xong cụ Việt nhấn mạnh yếu tố mà quân Pháp không có: “Dân ta là dân nô lệ, bị kìm ép, bị đàn áp. Thế mà bây giờ được giải phóng, được độc lập thì hạnh phúc quá nên mọi người quyết tâm đánh. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói phải gạt hết vấn đề giai cấp lại đã để tập trung giải phóng dân tộc.
Khi đánh nhau không nghĩ đến giai cấp mà chỉ nghĩ mình là dân mất nước nên bộ đội mang quần áo của nhà đi, thậm chí đi chân đất chiến đấu, đâu phải như bây giờ thì quá sang trọng. Súng ống thời đó cũng có gì đâu, khí thế, tinh thần đoàn kết và ý thức là quan trọng, đó là sức mạnh vô địch, sức mạnh của lòng dân”.
Theo VNE
Những bại tướng dưới tay Võ Nguyên Giáp (1)
Henri Navarre từng được ca ngợi như một danh tướng có thể "uốn nắn lại tình hình Đông Dương...". Nhưng khi Điện Biên Phủ thất thủ trước quân đội Việt Minh, danh tiếng của vị tướng này cũng tan thành mây khói.
LTS: Trong suốt cuộc trường chinh giành lại độc lập của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ 20, chủ nghĩa thực dân Pháp, đế quốc Mỹ với đội quân hiện đại và mạnh nhất thế giới đã phải gục ngã dưới chân những người lính nông dân "chân dép lốp" do Đại tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Những cái tên gắn liền với thất bại này, đáng nói, đều là những vị tướng giỏi và đã có khá nhiều chiến công trước khi sang Việt Nam như Henri Eugène Navarre, Des Castries, William Westmoreland... và những đạo quân "được trang bị đến tận răng".
Để tưởng nhớ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhân dịp này Infonet xin giới thiệu đến độc giả chân dung của một số "bại tướng" khi phải đối đầu với "Napoleon đỏ".
Bài 1: Henri Navarre
Henri Eugène Navarre (31/7/1898-26/9/1983) là một tướng quân đội Pháp từng tham gia chiến đấu trong Chiến tranh thế giới I, Chiến tranh thế giới II và là Tổng chỉ huy quân đội Pháp tại chiến trường Điện Biên Phủ.
Henri Navarre sinh trưởng trong một gia đình nhiều đời làm Chưởng lý quan tòa và luật sư vùng Normandie, Pháp. Khi tham gia quân đội Pháp Navarre từng phục vụ ở Đội kỵ binh Saint Germain số 16, chỉ huy đội kỵ binh Maroc số 3. Trong Thế chiến lần thứ II, Navarre chỉ huy sư đoàn Constantine ở Algeria (Bắc Phi). Khi sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, Navarre là tướng 4 sao, Tổng tham mưu trưởng lục quân khối Bắc Đại Tây Dương (NATO). Báo chí nước ngoài từng ca ngợi Navarre như một danh tướng có thể "uốn nắn lại tình hình Đông Dương..."
Ngày 07/5/1953, Tướng Henri Navarre được cử sang làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương. Trong lúc quân đội Pháp ngày càng lún sâu và bế tắc và thất bại ở Tây Bắc và Thượng Lào (1952, 1953), khi nhận chức, vị tướng quân đội Pháp đã tuyên bố đầy tự tin: "Bây giờ chúng ta có thể nhìn thấy rõ chiến thắng (ở Việt Nam) giống như nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm".
Navarre quyết định chọn Điện Biên Phủ là căn cứ điểm phòng ngự chiến lược, mạnh nhất Đông Dương khi đó, với ý đồ chặn đường tiếp tế của Việt Minh đi qua Lào đồng thời thực hiện chiến lược tập trung dồn lực lượng theo kiểu "con nhím" khiến kẻ thù khi tấn công sẽ bị tiêu hao sinh lực và thất bại. Navarre tính toán rằng để chiếm lại tuyến đường tiếp tế này, Tướng Giáp sẽ phải tiến hành một cuộc tấn công qui mô lớn vào Điện Biên Phủ, tổ chức chiến tranh kiểu truyền thống và khi đó quân đội Pháp sẽ có lợi thế.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh quân đội đồng thời là Chỉ huy trưởng mặt trận đã lãnh đạo quân đội Việt Nam đối đầu với kế hoạch Navarre.
Tướng Navarre tự tin nhận định rằng quân đội Việt Nam sẽ không thể vận chuyển các vũ khí hạng nặng vào chiến đấu với quân đội Pháp, nhưng ông ta không ngờ, quân đội giải phóng nhân dân Việt Nam đã dùng sức người để kéo pháo 150 mm và pháo cao xạ 37 mm qua nhiều đèo cao suối sâu để tiến vào trận địa. Các chiến sĩ Việt Nam cũng dùng sức người để đào chiến hào, tạo thành "chiếc thòng lọng siết cổ" quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ.
Khi Navarre nhận ra mình đang bị mắc kẹt, ông ta liền kêu gọi sự giúp đỡ. Mỹ, quốc gia viện trợ gần 400 triệu USD để Pháp thực hiện kế hoạch Navarre, đề xuất sử dụng một số vũ khí hạt nhân chiến thuật để chống lại Việt Minh, nhưng đề xuất này không bao giờ được thực sự cân nhắc. Mỹ còn đề xuất không kích để tiêu diệt quân đội Việt Nam. Tuy nhiên, Tổng thống Mỹ khi đó Dwight D. Eisenhower từ chối can thiệp trừ phi Anh và các đồng minh khác đồng ý. Nhưng Thủ tướng Anh Churchill cũng từ chối can thiệp và muốn chờ đợi kết quả của các cuộc thương lượng hòa bình ở Geneva, Thụy Sĩ.
Với trận quyết chiến chiến lược tiêu diệt Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (từ 13/3 đến 7/5/1954), kế hoạch Navarre bị phá sản hoàn toàn và cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi.
Theo các nhà phân tích, một trong những lí do khiến Navarre thất bại ở Điện Biên Phủ nói riêng và Việt Nam nói chung là do vị tướng này không có các mục tiêu chiến lược rõ ràng. Khi đó, mục tiêu của Navarre không phải là tiêu diệt kẻ thù trên chiến trường mà chỉ cần một kết quả có lợi cho các cuộc đàm phán ngoại giao.
"Theo những chỉ thị mà ông ấy nhận được, mục tiêu là nhằm tạo ra kết quả về quân sự giúp chính phủ Pháp thương lượng một giải pháp cứu vãn danh dự và chấp nhận được về vấn đề Đông Dương. Ông ấy (Navarre) phải chỉ cho Việt Minh thấy rằng họ không thể giành chiến thắng bằng vũ lực và cuối cùng sẽ phải thương lượng". Đến năm 1953, Paris hiểu rằng một chiến thắng bằng con đường quân sự ở Đông Dương là điều không thể. Do đó, mục tiêu của Pháp là tạo cơ sở cho các cuộc thương lượng và dàn xếp chính trị dựa trên kết quả tốt trên chiến trường.
Trong khi đó, quân đội Việt Nam dưới sự lãnh đạo c ủa Tướng Giáp lại có các mục tiêu rất rõ ràng và nhất quán. Về chiến lược, Việt Minh muốn giành chiến thắng áp đảo về quân sự để buộc người Pháp phải thương lượng. Về chiến thuật tác chiến, Tướng Giáp có kế hoạch dồn quân vào một số điểm nhất định ở Điện Biên và giành chiến thắng dựa vào pháo và quân số vượt trội.
Tự tin quá mức và đánh giá thấp năng lực của Việt Minh cũng là một nhân tố dẫn tới thất bại của Navarre.
"Rõ ràng là lực lượng chỉ huy của chúng ta đã tự tin quá mức về quân đội của mình và sự vượt trội về vũ khí", Tướng Pháp Georges Catroux viết trong cuốn hồi ký của ông.
Năm 1956, Navarre nghỉ hưu và xuất bản cuốn sách "Đông Dương hấp hối" đổ lỗi thất bại của ông này ở Đông Dương cho bản chất hệ thống chính trị, trí thức, chính trị gia, nhà báo và các nhà hoạt động chủ nghĩa cộng sản của Pháp.
Theo Infonet
Đặc biệt trên báo in ngày 1.5.2014 Chiến hạm "khủng" trợ lực không quân; Trận chiến cuối cùng của Mỹ ở Đông Dương; Thương hiệu Việt lừng lẫy một thời; Nhiều tình tiết mới vụ cá độ ở Ninh Bình.... là những thông tin hâp dân ban đoc co thê đon xem trên Bao Thanh Niên sô ra ngay 1.5.2014. Chiến hạm "khủng" trợ lực không quân Trong chiến tranh...