5G sẽ nới rộng khoảng cách số toàn cầu
Cuộc cách mạng số, trong đó bao gồm cả 5G, đã trở thành nội dung quan tâm của công chúng toàn cầu và ngày càng trở thành động lực thúc đẩy thay đổi xã hội.
Gần đây, các nhà nghiên cứu từ Đại học British Columbia (Canada), Ngân hàng Thế giới và Trung tâm Nghiên cứu Môi trường Helmholtz (Đức) lần đầu tiên điều tra tác động của cuộc cách mạng số đối với các khu vực nông thôn và nghèo đói trên toàn cầu. Họ phát hiện ra rằng, tỷ lệ người dùng Internet và mạng di động ở một số khu vực rất thấp.
Với sự phổ biến của mạng 5G, khoảng cách số giữa người nghèo và người giầu trên toàn cầu có thể mở rộng hơn nữa. Zia Mehrabi của Đại học British Columbia, người đứng đầu cuộc nghiên cứu, cho biết có một giả định rằng những công nghệ mới này sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, nhưng kết quả không phải như vậy.
Số hóa là xu hướng chung
“Chuyển đổi số đang thay đổi cơ bản tất cả khía cạnh của xã hội và kinh tế toàn cầu. Số hóa không chỉ là một công cụ giải quyết những thách thức của phát triển bền vững mà còn là cơ sở để thúc đẩy sự thay đổi mang tính đột phá ở nhiều cấp độ”, Nebojsa Nakicenovic, Giám đốc điều hành của Dự án Nghiên cứu Thế giới 2050 ( TWI2050) nói.
Thực tế, số hóa đã lan tỏa đến mọi ngóc ngách trong cuộc sống. Việc sử dụng những phương pháp công nghệ cao như trí tuệ nhân tạo sẽ thúc đẩy sự phát triển của các giải pháp điều trị chính xác trong y học, lái xe tự động, cuộc sống thông minh, ngân hàng thông minh, thành phố thông minh và Internet vạn vật, làm cho cuộc sống của con người trở nên thuận tiện và hiệu quả hơn.
Video đang HOT
Tuy nhiên, cũng giống như mặt khác của đồng tiền, sự phân chia kỹ thuật số tiếp theo làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Vào tháng 9, ITU đã đưa ra một báo cáo nghiên cứu cho biết vào năm 2030, sẽ cần một khoản đầu tư khoảng 428 tỷ USD để cho phép 3 tỷ người trên 10 tuổi sử dụng Internet băng thông rộng.
Thống kê cho thấy hơn 12% dân số toàn cầu không có Internet sống ở các vùng nông thôn hẻo lánh, phần lớn nằm ở Châu Phi và Nam Á. Có lẽ, thời đại số đã mang lại hy vọng không giới hạn cho 500 triệu nông dân nghèo trên thế giới. Một chiếc smartphone được trang bị ứng dụng phù hợp có thể cho họ biết khi nào trời mưa, cách xác định và loại bỏ sâu bệnh, thậm chí giúp họ mặc cả mua bán. Nếu không, hàng triệu nông dân sẽ bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Góc không thể tiếp cận
Mehrabi và các cộng sự tin rằng có những lý do khác nhau dẫn đến sự phân chia số tại các khu vực khác nhau, có thể do thiếu thiết bị hoặc vùng phủ sóng lỗi thời. Ví dụ, ở Mexico, nền kinh tế lớn thứ hai ở Mỹ Latinh, hầu như tất cả mọi người đều có điện thoại di động, nhưng chỉ 25% nông dân có quyền truy cập Internet. Ở nhiều vùng của châu Phi cận Sahara có tiềm năng trở thành vựa lúa toàn cầu, chưa đến 40% nông dân có quyền truy cập Internet.
Và không giống như việc sử dụng rộng rãi điện thoại di động ở châu Á và châu Mỹ Latinh, chưa đến 70% nông dân ở châu Phi cận Sahara có thiết bị cầm tay. Chỉ 9% người dùng có thể truy cập mạng 4G để chạy ứng dụng phức tạp hơn. Nghiên cứu cũng chỉ ra sự khác biệt giữa quy mô trang trại và dịch vụ mạng di động. Trên toàn cầu, 24% đến 37% trang trại có diện tích dưới 1 ha có thể truy cập mạng 3G hoặc 4G. Đối với các trang trại có diện tích hơn 200 ha, tính khả dụng của mạng lưới cao tới 80%.
Nghiên cứu tập trung vào những lỗ hổng trong phạm vi phủ sóng điện thoại di động mà nông dân cần nhất. Số liệu cho thấy ở những vùng thiếu đạm, năng suất cây trồng thấp do không được quản lý phân bón hợp lý, nhưng mức độ sẵn có của mạng 3G/4G tương ứng là 60% và 22%. Ở những khu vực dựa vào lượng mưa để duy trì sản xuất cây trồng, độ bao phủ của hai mạng lưới này lần lượt là 71% và 54%.
Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng những khoảng cách bao phủ này là trở ngại cho sự phát triển của dịch vụ tư vấn dinh dưỡng, khí hậu và dịch vụ tài chính đòi hỏi Internet di động. Ví dụ, năm 2018, bệnh sốt rét khiến hơn 400.000 ca tử vong, nhưng khả năng truy cập mạng 3G/ 4G của bệnh nhân sốt rét trên toàn thế giới chỉ là 37% và 7%.
Mehrabi cho biết: “Mạng lưới phủ sóng không đầy đủ đối với các nhóm dân số có nguy cơ đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực và ảnh hưởng đến sức khỏe của các bệnh mới nổi, bao gồm cả bệnh viêm phổi mạch vành. Ngày nay, việc thiếu vùng phủ sóng là vấn đề nan giải hơn bao giờ hết”.
Thu hẹp khoảng cách
Các nhà nghiên cứu kêu gọi các chính phủ, công ty và cơ quan phát triển thực hiện những khoản đầu tư và can thiệp cần thiết để thu hẹp khoảng cách kỹ thuật số. Họ kêu gọi hành động ngay lập tức đối với các Mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc để đạt được quyền truy cập Internet phổ cập cho các nước kém phát triển nhất vào năm 2020.
Theo các nhà nghiên cứu, nên đầu tư vào đổi mới cơ sở hạ tầng “dặm cuối cùng”, chẳng hạn như năng lượng tái tạo, trạm gốc di động chi phí thấp và công nghệ vi sóng có thể mở rộng. Đồng thời, tăng khả năng thanh toán qua điện thoại di động và phổ cập dữ liệu truy cập. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng ở một số quốc gia châu Phi, kế hoạch cơ bản 1GB dữ liệu mỗi tháng vượt quá thu nhập hàng năm của 10% dân số nghèo nhất.
Ngoài ra, cần tăng kinh phí nghiên cứu liên quan và các nghiên cứu cơ bản phải được cập nhật thường xuyên để theo dõi tiến độ, thiết lập chỉ số liên quan đến nâng cao năng lực, kỹ năng, hiểu biết số và sự phù hợp với văn hóa dịch vụ, đặc biệt là chỉ số về tuổi và giới.
Mehrabi cho biết: “5G sắp đi vào hoạt động ở nhiều khu vực. Nếu vấn đề truy cập không thể được giải quyết bằng công nghệ cấp thấp, điều này chỉ làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo và gây ra bất bình đẳng lớn hơn. Chúng ta càng trì hoãn lâu, vấn đề sẽ càng trở nên nghiêm trọng hơn”.
47% các tổ chức sẽ tăng đầu tư vào IoT, bất chấp đại dịch Covid-19
Theo một cuộc khảo sát gần đây được thực hiện bởi Công ty nghiên cứu thị trường Gartner, mặc dù có những tác động từ đại dịch Covid-19 nhưng 47% các tổ chức vẫn lên kế hoạch tăng đầu tư vào Internet vạn vật (IoT).
Sau đợt phong tỏa do đại dịch Covid-19, cuộc khảo sát cho thấy 35% tổ chức đã giảm đầu tư vào IoT, trong khi một số lượng lớn hơn các tổ chức đang có kế hoạch đầu tư nhiều hơn vào triển khai IoT để giảm chi phí. Dự báo đến năm 2023, 1/3 các công ty đã triển khai IoT sẽ triển khai trí tuệ nhân tạo (AI) cùng với ít nhất một dự án IoT.
Tác động của Covid-19 đối với các kế hoạch triển khai IoT. (Nguồn: Gartner - 10/2020)
Liên quan đến vấn đề này, ông Benoit Lheureux - Phó Chủ tịch nghiên cứu tại Gartner cho rằng: "Các tổ chức sử dụng chỉ số đo lường và đánh giá hiệu quả hoạt động (KPI) để theo dõi kết quả kinh doanh và cũng đưa ra thời gian cụ thể để hoàn vốn cho những khoản đầu tư vào IoT của họ, trung bình là 3 năm".
Ngoài ra, vì những khoản đầu tư vào IoT còn tương đối mới nên hầu hết các công ty có rất nhiều cơ hội tiết kiệm chi phí để theo đuổi, chẳng hạn như bảo trì dự đoán đối với các tài sản thương mại và công nghiệp như thang máy hoặc tuabin, tối ưu hóa quy trình sản xuất nhằm tăng năng suất.
Cuộc khảo sát cho thấy, 31% người trả lời rằng họ sử dụng bản sao kỹ thuật số để cải thiện sự an toàn của nhân viên hoặc khách hàng. Chẳng hạn như sử dụng giám sát tài sản từ xa để giảm tần suất giám sát trực tiếp như giám sát bệnh nhân tại bệnh viện và trong hoạt động khai thác mỏ. Bên cạnh đó, 27% số công ty đang lên kế hoạch sử dụng bản sao kỹ thuật số vào thiết bị tự động, robot hoặc các loại phương tiện.
Ông Lheureux nhận định: "Bản sao kỹ thuật số có thể giúp các công ty phát hiện ra sự cố trước khi thiết bị ngừng hoạt động, cho phép sửa chữa sớm cũng như giảm chi phí. Hoặc một công ty có thể sử dụng bản sao kỹ thuật số để tự động lên lịch sửa chữa nhiều thiết bị theo cách giảm thiểu sự tác động đến hoạt động sản xuất".
Gartner kỳ vọng rằng, vào năm 2023, 1/3 các công ty có quy mô từ trung bình đến quy mô lớn đã triển khai IoT sẽ tiến hành ít nhất một ứng dụng bản sao kỹ thuật số.
Việc thực thi các biện pháp an toàn cũng thúc đẩy áp dụng AI trong doanh nghiệp. Các tổ chức được khảo sát cho biết họ đã áp dụng kỹ thuật AI một cách thực dụng. 25% tổ chức ủng hộ tự động hóa (thông qua truy cập từ xa và quản lý không chạm), trong khi 23% lựa chọn tuân thủ quy trình (những biện pháp tự động hóa an toàn) để giảm bớt mối lo ngại về an toàn do Covid-19 gây ra. Ví dụ: các tổ chức có thể giám sát khu vực làm việc bằng cách sử dụng phân tích nguồn cấp dữ liệu video trực tiếp được hỗ trợ bởi AI để giúp tuân thủ giãn cách xã hội một cách an toàn trong một số khu vực có lưu lượng truy cập cao như nhà hàng và dây chuyền sản xuất.
Thiết bị IoT - công cụ tiếp tay cho hacker Bé gái 8 tuổi hoảng hốt tìm kẻ đột nhập vào phòng ngủ của mình. Cô nghe rõ tiếng hắn chơi bài hát Tiptoe Through the Tulips rất kỳ quái, nhưng lại không nhìn thấy. "Ai vậy?", cô hỏi. "Ta là bạn thân nhất của cháu đây. Cháu có thể làm bất cứ điều gì cháu muốn. Lục tung căn phòng, hay đập...