4 dự án siêu tăng yểu mệnh trong Thế chiến I
Đức, Nga, Anh, Pháp đều bí mật phát triển những siêu tăng hạng nặng, nhưng chỉ Pháp chế tạo thành công và đưa vào vận hành sau Thế chiến I.
Bản vẽ đề án xe tăng K-Wagen của Đức. Ảnh: War History.
Trong thế chiến I, các cường quốc cho rằng uy lực của xe tăng nằm ở kích thước. Điều đó thúc đẩy những nước như Đức, Anh, Pháp và đế quốc Nga bí mật phát triển hàng loạt dự án siêu xe tăng hạng nặng, theo War History.
K-Wagen
Năm 1917, đế quốc Đức bắt đầu sản xuất A7V, mẫu xe tăng đầu tiên trong lịch sử nước này. Tuy còn nhiều vấn đề, tiềm năng của nó thôi thúc nước này theo đuổi những thiết kế cải tiến, với hi vọng xoay chuyển cục diện chiến trường. Kết quả là sự ra đời của xe tăng K-Wagen.
Đây là tác phẩm của Joseph Vollmer, nhà thiết kế xe tăng tiên phong của Đức. Chỉ một trong hai nguyên mẫu của K-Wagen được hoàn thành sau khi chiến tranh kết thúc. Tuy nhiên, chúng đều bị phá hủy theo hiệp ước Versaille, trong đó cấm Đức sản xuất và sở hữu xe tăng quân sự.
Vào thời điểm đó, K-Wagen là cỗ máy đáng sợ khi sở hữu 4 pháo cỡ nòng 77 mm và 7 súng máy. Xe có khối lượng 120 tấn và kíp lái tới 27 người. Dù có hỏa lực mạnh, lớp giáp của xe lại rất mỏng với độ dày 30 mm, ngang với xe tăng hạng nhẹ trong Thế chiến II.
Thiết kế xe tăng Mendeleev Rybinsk của đế quốc Nga ra đời vào khoảng năm 1915. Nó được đặt theo tên nhà thiết kế Vasily Mendeleev và thị trấn Rybinsk, nơi Mendeleev vẽ bản phác thảo đầu tiên của xe.
Cỗ chiến xa này được kỳ vọng sẽ thay đổi cuộc chiến ở mặt trận phía Đông trong Thế chiến I, nhưng chỉ tồn tại trên giấy và không được chế tạo. Theo thiết kế, Mendeleev Rybinsk có một pháo cỡ nòng 127 mm gắn trong lớp vỏ kiểu toa tàu hỏa nặng 173 tấn và kíp lái 8 người. Xe được gắn nhiều tấm thép, cung cấp khả năng bảo vệ tốt hơn mẫu K-Wagen của Đức. Mendeleev Rybinsk sử dụng một động cơ xăng công suất lớn và hệ thống giảm xóc tiên tiến hoạt động bằng khí nén.
Video đang HOT
Dự án không nhận được nhiều sự hỗ trợ, khiến Mendeleev tìm cách tự mình chế tạo bản mẫu. Tuy nhiên, quyết tâm của nhà thiết kế vẫn không đủ, khiến xe tăng Mendeleev Rybinsk chỉ dừng ở mức thiết kế.
Char 2C do Pháp chế tạo là siêu tăng duy nhất trong danh sách này được biên chế, cũng là loại xe tăng lớn nhất từng được vận hành. Mẫu Char 2C bắt đầu được phát triển năm 1916, không lâu sau khi Anh cho ra đời xe tăng Mark I, do Pháp muốn phát triển xe tăng vượt trội so với Anh.
Phiên bản Char 2C hoàn thiện dài hơn 10 m, nặng 69 tấn, trang bị một pháo 75 mm cùng 4 súng máy Hotchkiss Mle 1914 cỡ nòng 8 mm bố trí phía trước, hai bên sườn và phía sau.
Một chiếc Char 2C rơi vào tay quân Đức năm 1940. Ảnh: War History.
Sau Thế chiến I, Char 2C dần mất chỗ đứng, bị lấn át bởi các mẫu xe mới nhỏ gọn và uy lực hơn. Trong thập niên 1930, loại xe này không khác gì một con hổ giấy bởi sự lạc hậu, tốc độ thấp khiến chúng dễ bị tiêm kích bom và pháo chống tăng tiêu diệt. Char 2C bị coi là một trong những nguyên nhân chính khiến Pháp nhanh chóng thất thủ trước Đức năm 1940.
Flying Elephant (Voi bay)
Xe tăng Mark I chủ lực của Anh trong Thế chiến I bị đánh giá là dễ tổn thương trước hỏa lực pháo binh. Điều này thúc đẩy nhà thiết kế William Tritton tạo ra mẫu chiến xa có thể chịu được đạn pháo.
Mẫu thiết kế năm 1916 của Tritton mang tên Flying Elephant, có khối lượng 100 tấn, sở hữu giáp trước dày 76 mm, giáp sườn dày 50 mm. Nó có thể chịu được đạn pháo 57 mm bắn thẳng. Nguyên mẫu đầu tiên được chế tạo năm 1916 nhưng không được hoàn thiện do hạn chế trong khả năng cơ động.
Các cường quốc trong Thế chiến I đều bí mật phát triển siêu tăng hạng nặng, nhưng chỉ có Pháp thành công với tăng Char 2C. Tuy nhiên, kích cỡ khổng lồ của chúng nhanh chóng trở nên lạc hậu trong kỷ nguyên oanh tạc cơ và vũ khí chống tăng cỡ nòng lớn ra đời, chuyên gia quân sự Nikola Budanovic nhận định.
Duy Sơn
Theo VNE
Hành trình về nhà qua nửa vòng Trái Đất của 50 lính Đức bị bỏ rơi
50 lính Đức đổ bộ xuống một đảo ở Thái Bình Dương và vô tình bị bỏ rơi, buộc họ tìm đường trở về nhà qua nửa vòng Trái Đất.
Thủy thủ đoàn tuần dương hạm SMS Emden trước khi Thế chiến I nổ ra. Ảnh: War History.
Sáng 9/10/1914, Hellmuth Von Mucke, thuyền phó trên tuần dương hạm SMS Emden của đế quốc Đức dẫn nhóm thủy thủ đổ bộ lên quần đảo Keeling ở nam Thái Bình Dương để phá hủy tuyến cáp liên lạc giữa thuộc địa và quân đội Anh. Không ai trong nhóm biết rằng họ sắp trải qua một trong những chuyến phiêu lưu ngoạn mục nhất Thế chiến I, theo War History.
Nhóm 50 lính Đức lên đảo Direction lúc 6h sáng, trong khi tàu SMS Emden thả neo gần đó. Nhóm đổ bộ thông báo cho các quan chức địa phương về ý đồ của mình, cam kết bảo đảm an toàn cho cư dân địa phương nếu không bị cản trở. Hellmuth Von Mucke cho biết mục tiêu của lính Đức chỉ là thiết bị radio, thư tín và đường dây liên lạc của quân đội Anh.
Sau khi phá hủy thiết bị liên lạc đối phương, nhóm lính Đức chuẩn bị trở về thì tai họa ập đến. Còi báo hiệu trên tàu Emden cho biết họ cần trở lại càng nhanh càng tốt. Nhóm đổ bộ vội chèo xuồng trở về tàu mẹ, nhưng khi họ đến nơi thì con tàu này đã rời đi.
Trước đó ít phút, SMS Emden bị tuần dương hạm HMAS Sydney của Australia tấn công. Tàu Đức tìm cách chống trả, nhưng hỏa lực áp đảo trên HMAS Sydney buộc họ phải rút chạy. Von Mucke hiểu rằng các tàu khác của Anh sẽ đến để kiểm tra trạm liên lạc và họ cần nhanh chóng tẩu thoát.
Quay trở lại đảo Direction, lính Đức tập trung cư dân địa phương, tuyên bố trưng dụng tàu buồm cũ kỹ mang tên Ayesha đang neo đậu tại cảng. Người dân địa phương khuyên Von Mucke không nên dùng tàu này bởi nó đã cũ, từ lâu không được bảo dưỡng và phần đáy bị mục nát. Tuy nhiên, Von Mucke vẫn quả quyết ra khơi bằng Ayesha. Nhóm lính Đức được cư dân trên đảo mang cho các tờ báo, quần áo, chăn và lương thực.
Nhóm lính Đức trở lại đảo Direction sau khi tàu Emden rời đi. Ảnh: War History.
Trước khi trời tối, tàu Ayesha bắt đầu lên đường đến Padang, một cảng trung lập do Hà Lan kiểm soát. Họ phải vòng qua các vùng biển nông và rặng san hô nguy hiểm, sống sót qua nhiều trận bão lớn và tránh bị đối phương phát hiện. Một khu trục hạm ngư lôi phát hiện họ nhưng không tấn công. Thủy thủ đoàn chỉ quan sát con tàu nhỏ này lướt đi trên biển.
Ngày 25/10, nhóm lính Đức đến được cảng Padang nhưng chỉ có 24 giờ để sửa tàu. Phía Hà Lan cấm không cho họ mang quần áo hoặc bản đồ lên tàu. Thủy thủ đoàn phải cùng nhau vẽ một bản đồ từ các loại sổ nhật ký và suy đoán, nhưng nó không chính xác và quá thiếu an toàn. Bất chấp hiểm họa này, nhóm lính Đức buộc phải ra khơi về phía nam với hy vọng gặp tàu hơi nước đồng minh.
Sau hai tuần lênh đênh mò mẫm trên biển, Ayesha cuối cùng cũng gặp Choising, một tàu hàng Đức khởi hành từ Padang. Von Mucke lệnh cho đồng đội lên tàu. Sau khi chuyển đồ lên tàu, họ phải đánh chìm tàu Ayesha. Nhưng việc này khó khăn hơn dự tính, con tàu nhỏ cứ bám đuôi tàu Choising. Cuối cùng, tàu Choising dừng lại để chiếc Ayesha có thể chìm dần xuống biển.
Choising sau đó đổi tên thành Shenir, ngụy trang là tàu Anh được bán cho một công ty Italy để đi đến Arab Saudi. Lúc này, thủy thủ đoàn Đức biết được Thổ Nhĩ Kỳ đã tham chiến và theo phe Đức. Cách tốt nhất để họ sống sót là đến vùng lãnh thổ đồng minh. Họ tránh các tuyến hàng hải, đi vòng quanh Ấn Độ Dương và đến Hodeida, Yemen đầu tháng 1/1915. Phát hiện một tàu tuần dương Pháp ngoài khơi, nhóm lính Đức rời tàu Choising và chèo xuồng vào bờ.
Khi đáp xuống Hodeida, họ tìm cách trở về Đức. Sau khi từ bỏ nỗ lực hồi hương bằng đường bộ, họ quyết định mua hai tàu buồm Arab, mỗi chiếc dài 12 m. 50 lính Đức ra khơi và đến Al Qunfidah, Arab Saudi sau đó hai tháng. Từ đây, họ vòng tránh sự phong tỏa của Anh trên Biển Đỏ, di chuyển đường bộ bằng lạc đà và lừa đến Djedda, sống sót qua cuộc tấn công của 300 dân du mục trong ba ngày di chuyển trên sa mạc.
Hành trình của 50 lính Đức trên biển. Ảnh: Wordpress.
Ngày 9/4, nhóm lính Đức rời Djedda và dùng thuyền buồm di chuyển theo hướng tây bắc về El Wegh. Ngày 2/5, họ tiếp tục dùng lạc đà di chuyển qua khu vực xa xôi hẻo lánh để đến ga đường sắt Al Ula. Lúc này, tin tức về hành trình của 50 lính Đức đã lan ra khắp thế giới. Khi đến Al Ula, một con tàu đã đợi sẵn cùng hai nhà ngoại giao Đức và một tùy viên quân sự Thổ Nhĩ Kỳ, giúp hành trình về nhà của họ dễ dàng hơn.
Trong 10 tháng di chuyển từ nam Thái Bình Dương đến Đức, nhóm lính mất 10 người, nhưng đã được cả thế giới ngưỡng mộ nhờ hành trình hồi hương phi thường.
Duy Sơn
Theo VNE
Thiết giáp hạm 'quái vật biển' suýt được hải quân Mỹ chế tạo Được kỳ vọng là những thiết giáp hạm lớn nhất, uy lực nhất, hỏa lực mạnh nhất, nhưng các tàu lớp Montana đã không tìm được chỗ cho mình trên đại dương. Mô hình thiết kế tàu Montana năm 1940. Ảnh: Wikipedia. Đầu thập niên 1940, để đối phó với các chiến hạm cực lớn của Nhật Bản và Đức, hải quân Mỹ...