3 “vũ khí” chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế
Có ít nhất 3 “vũ khí” mà chính sách tiền tệ có thể tham gia để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
Việt Nam hiện nay có thể giảm thêm lãi suất, đẩy mạnh tín dụng để hỗ trợ tăng trưởng. Ảnh: Đ.T
Tăng tín dụng, giảm lãi suất và có thể sử dụng dự trữ ngoại hối quốc gia
Tại cuộc họp của Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia mới đây, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cho rằng, khác với đa số các nước, dư địa chính sách tài khóa, tiền tệ của chúng ta còn khá lớn cho kích thích tổng cầu, thúc đẩy tăng trưởng. Vậy đâu là dư địa cho chính sách tiền tệ?
Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, TS. Võ Trí Thành, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia cho rằng, tại Việt Nam, dư địa cho chính sách tiền tệ vẫn còn, cụ thể là giảm thêm lãi suất, đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng và cân nhắc sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia để hỗ trợ tăng trưởng.
“Trong điều kiện bình thường, không quốc gia nào muốn ngân hàng trung ương bơm tiền hỗ trợ tăng trưởng. Tuy nhiên, trong bối cảnh đặc biệt – nhất là khi chính sách tài khóa hạn chế – thì hỗ trợ từ chính sách tiền tệ là rất cần thiết. Đương nhiên, sự hỗ trợ này phải với liều lượng và phải thông qua các biện pháp kỹ thuật để đảm bảo an toàn”, TS. Võ Trí Thành nói.
Trên thực tế, việc giảm lãi suất và tăng tín dụng đang được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các ngân hàng triển khai tích cực. Xu hướng giảm lãi suất cho vay diễn ra mạnh hơn trong vòng 1 tháng qua. Theo Công ty Chứng khoán KB Việt Nam (KBSV), lãi suất cho vay đang ở mức thấp nhất trong 10 năm trở lại đây.
Về tín dụng, đại diện NHNN cho hay, cơ quan này đã nới room tín dụng cho tất cả các ngân hàng đã có đơn đề nghị. Thực tế, tín dụng của toàn ngành cũng đã cải thiện đáng kể từng tháng. So với tháng liền kề, nếu như tín dụng tháng 4 chỉ tăng 0,12% thì tháng 5 tăng 0,53% và tháng 6 tăng 1,28%.
Dù vậy, để đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm trên 10% như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các ngân hàng sẽ phải rất nỗ lực.
Riêng về lãi suất, dù lĩnh vực ưu tiên lãi vay đã khá hấp dẫn, song lãi vay các lĩnh vực thông thường và lãi vay trung, dài hạn vẫn khá cao so với khả năng sinh lời của doanh nghiệp hiện nay.
Ông Trần Hoàng Ngân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM cho rằng, mặt bằng lãi suất ở Việt Nam tuy giảm, song vẫn cao hơn so với lãi suất nhiều nước trong khu vực. Chẳng hạn, lãi suất điều hành của Thái Lan hiện khoảng 0,5%, của Philippines và một số nước trong khu vực khoảng 3%.
Video đang HOT
Riêng với việc sử dụng Quỹ Dự trữ ngoại hối quốc gia, TS. Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia nhận định, giải pháp này có thể sử dụng, nhưng chỉ với liều lượng nhất định và phải thông qua các nghiệp vụ phức tạp của NHNN.
Dù vậy, các chuyên gia đều thống nhất cho rằng, với tình hình Việt Nam hiện nay, chính sách tiền tệ hoàn toàn có thể tăng thêm liều lượng để hỗ trợ tăng trưởng.
Tiền nhiều, tiền rẻ là vô nghĩa nếu mất ổn định vĩ mô
Thừa nhận lãi suất vẫn còn dư địa để giảm, song TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia nhấn mạnh: “Lãi suất hiện nay không phải là điểm nghẽn chính của nền kinh tế. Tương tự, hạn mức tăng tín dụng cũng không phải là rào cản, NHNN đã rất linh hoạt trong điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng của các ngân hàng, ngân hàng nào có thể tăng trưởng tín dụng, thì NHNN đều đáp ứng trên cơ sở kiểm soát được rủi ro. Tuy nhiên, tôi cho rằng, năm nay, tín dụng toàn hệ thống chỉ tăng 9 – 10% do cầu yếu”.
Theo nhận xét của giới chuyên gia, lạm phát thấp và thanh khoản dồi dào là cơ sở để lãi suất có thể giảm thêm trong những tháng cuối năm. Vốn có thể rẻ hơn, song tiền có chảy được hay không còn phụ thuộc vào khả năng hấp thụ của nền kinh tế, vào nhu cầu vay của doanh nghiệp. Bài học nhãn tiền về nợ xấu khiến ngân hàng không thể cho vay vô tội vạ hay hạ chuẩn lãi vay. Doanh nghiệp nếu không có đơn hàng, không chứng minh được khả năng trả nợ thì sẽ khó có cơ hội tiếp cận vốn.
Một trong những hướng khơi thông tín dụng hiện nay, theo Thống đốc Lê Minh Hưng, là trong trường hợp cần thiết, NHNN sẽ có các giải pháp tiền tệ mạnh hơn, như tái cấp vốn cho những dự án, công trình có tác động lan tỏa. Đây giải pháp tốt để hỗ trợ tăng trưởng. Tuy nhiên, hình thức rót vốn như thế nào, tiêu chí lựa chọn dự án ra sao chưa được làm rõ. Nếu hình thức giải ngân như cấp vốn cho các dự án đầu tư công, thì chắc chắn việc tái cấp vốn từ NHNN cũng khó có thể đẩy nhanh.
Ngoài ra, nhiều thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia cũng cho rằng, việc tăng tín dụng hỗ trợ tăng trưởng chỉ có ý nghĩa khi kiểm soát được lạm phát, giữ được ổn định kinh tế vĩ mô. Nếu GDP tăng, nhưng lạm phát phi mã, nợ xấu tăng lên, thì tất cả sẽ thành vô nghĩa. Cung tiền thường có tác động trễ lên lạm phát, có khi 2 – 3 năm, nên càng không thể chủ quan.
Liên quan vấn đề này, Thủ tướng Chính phủ cũng có chỉ đạo, xu hướng các nước là tiếp tục thực hiện giải pháp kích thích kinh tế, cả về tài khóa và tiền tệ. Tuy vậy, cũng cần lưu ý, nguy cơ tiếp theo là khủng hoảng nợ công, khủng hoảng hệ thống tài chính, tiền tệ và nợ xấu có thể xảy ra.
Với Việt Nam hiện nay, chính sách tiền tệ vẫn có thể nới lỏng thêm ít nhiều, như giảm lãi suất, tăng thêm cung tiền. Từ đầu năm đến nay, NHNN đã 2 lần giảm lãi suất điều hành, song nếu lạm phát được kiểm soát tốt thời gian tới, NHNN hoàn có thể giảm thêm lãi suất. Hoặc tín dụng 6 tháng đầu năm chỉ tăng khoảng 3,4%, song trong 6 tháng cuối năm, tín dụng toàn hệ thống có thể tăng 9 – 10%. Trong bối cảnh nguồn thu từ ngân sách hạn chế, một dư địa nữa mà chính sách tiền tệ có thể sử dụng để hỗ trợ tăng trưởng là sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia. - TS. Võ Trí Thành, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia
Ổn định tiền tệ mới thu hút được đầu tư
Nếu điều hành chính sách tiền tệ mà không chắc tay, thì Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội thu hút nguồn vốn xã hội, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)trong lúc dịch chuyển các dòng vốn.
Chuyên gia kinh tế - tài chính Bùi Đức Thụ trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư ngay sau cuộc họp Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc chủ trì cuối tuần qua.
Chuyên gia kinh tế - tài chính Bùi Đức Thụ.
Thưa ông, không ít lần tại diễn đàn Quốc hội, ông đã bày tỏ quan điểm về quản lý tài chính công, siết chặt kỷ cương ngân sách. Giờ là thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, khi Thủ tướng Chính phủ đề nghị các chuyên gia hiến kế để thu hút đầu tư xã hội, đầu tư tư nhân, vốn FDI, đồng thời đề cập khả năng tăng bội chi, nợ công, quan điểm của ông thế nào?
Theo tôi, cần hết sức cân nhắc trong điều hành chính sách tiền tệ. Bởi 6 tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân đã tăng 4,19%, trong khi áp lực của năm 2020 là phải thực hiện nghị quyết của Quốc hội, CPI dưới 4%. Để duy trì mục tiêu này, điều hành 6 tháng cuối năm hết sức quan trọng, phải kiểm soát được những yếu tố tăng giá tác động đến CPI như giá thịt lợn, giá sách giáo khoa, điện, nước sạch...; phí và lệ phí cũng phải cân nhắc hết sức thận trọng.
Tôi xin lưu ý rằng, nếu từ giờ đến cuối năm, giá xăng dầu phục hồi, dư nợ tín dụng không thấp như 6 tháng đầu năm mà đạt được tốc độ 14% như kế hoạch, thì chắc chắn áp lực lạm phát sẽ tăng cao.
Trước mắt, phải dùng các biện pháp rà soát lại và kiềm chế như nói trên, song về lâu dài, phải đảm bảo được cân đối hàng - tiền và muốn vậy, phải kiểm soát được mức cung tiền tệ trong từng thời điểm. Thời gian qua, chúng ta đã nới lỏng tiền tệ ở mức độ nhất định để hạ lãi suất cho vay, các ngân hàng cũng chia sẻ với doanh nghiệp, nhưng nếu giá dầu và tín dụng tăng thì áp lực lạm phát cũng tăng.
Tuy nhiên, với diễn biến của Covid-19, với khó khăn của nền kinh tế thế giới, thì tổng cầu giảm xuống, tránh được áp lực tăng giá của thị trường thế giới. Vì thế, nếu điều hành tốt, thì CPI năm nay của Việt Nam vẫn có thể dưới 4%.
Về lâu dài thì sao, thưa ông?
Về lâu dài, chính sách tiền tệ luôn phải thận trọng, linh hoạt, nếu nới lỏng quá mức thì sẽ phá vỡ ổn định tiền tệ, lạm phát gia tăng, tỷ giá biến động, gây tổn thương đến môi trường đầu tư.
Với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, trong điều kiện quy mô GDP 280 tỷ USD mà hơn 70% là tiêu dùng cuối cùng, tiết kiệm nội địa để tích luỹ cho đầu tư là rất ít, thì để tăng trưởng, vẫn cần vốn. Vậy lấy tiền đâu mà đầu tư? Câu trả lời là vẫn cần thu hút nguồn lực trong và ngoài nước, trong đó có FDI, kể cả vay để bù đắp thâm hụt ngân sách cũng như các nguồn vay ngoài nước khác.
Tuy nhiên, để thu hút được nguồn lực tài chính ngoài nước, rõ ràng là phải ổn định tiền tệ, ổn định tỷ giá. Nếu như điều hành chính sách tiền tệ không chắc tay, thì có thể đầu tư gián tiếp sẽ rút ra ồ ạt, đầu tư trực tiếp di chuyển sang nơi khác, Việt Nam không đón được các làn sóng đầu tư.
Covid-19 tuy tác động tiêu cực nhiều mặt, nhưng cũng là thời cơ, nếu Việt Nam cam kết ổn định chính sách tiền tệ thì sẽ thu hút được các nguồn lực trong và ngoài nước.
Ngoài chính sách tiền tệ, để hỗ trợ doanh nghiệp cả trong ngắn hạn cũng như trong trung, dài hạn, cần phải tính đến chính sách tài khoá. Theo ông, hiện tại chính sách tài khóa có thể nới lỏng được không?
Có thể, vì còn dư địa. Vài năm trước, nợ công trên 64% GDP, sát trần 65% được Quốc hội cho phép thì dư địa không còn, nếu những năm đó nới lỏng thì có nguy cơ vượt trần dẫn đến khủng hoảng nợ công. Theo thực tế của nhiều nước, thì điều này để lại hậu quả vô cùng to lớn. Nhưng thời điểm này, nợ công khoảng 55% GDP, dưới trần khoảng 10%, tức là dư địa vẫn còn.
Mặt khác, chính sách tài khoá thường vận động ngược chiều với chu kỳ kinh tế. Khi chu kỳ kinh tế đang ở giai đoạn phát triển thì phải tăng thu, giảm chi, cân đối ngân sách phải có thặng dư để tăng tiềm lực nhà nước, đồng thời có nguồn để thanh toán các khoản nợ gốc và lãi. Còn khi kinh tế suy thoái, thì chính sách tài khoá phải nới lỏng để khắc phục hậu quả đó. Hiện tại, Covid-19 làm giảm tốc độ tăng trưởng xuống rất thấp, để phục hồi, chúng ta phải nới lỏng tài khoá. Trong điều kiện nợ công hiện nay, tôi cho rằng, có thể làm được việc này.
Vậy khi nào sẽ nới lỏng? Theo tôi, hiện tại chưa cần nới lỏng, vì có nhiều thứ cần tăng chi nhưng nguồn tương đối đủ. Dự phòng ngân sách hàng chục ngàn tỷ đồng cho phép ứng phó những vấn đề phát sinh, nhất là thiên tai dịch bệnh. Ngoài khoản đó, Chính phủ còn có quyền sử dụng dự trữ tài chính. Chưa kể năm 2019, thu ngân sách của cả Trung ương và địa phương đều vượt tương đối lớn và nguồn này Quốc hội đã cho phép chuyển sang năm 2020 để ưu tiên xử lý những vấn đề cấp bách. Trong trường hợp cần thiết, theo Luật Ngân sách nhà nước, Chính phủ có quyền ứng dự toán ngân sách của năm 2021 để xử lý.
Tôi tin là, nếu Chính phủ trình đề án nới lỏng tài khóa những năm tới có kiểm soát, đảm bảo trúng và đúng những chỗ đang vướng mắc để tăng cường tính ổn định của kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và làm cho lành mạnh hoá, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, thì chắc chắn các đại biểu Quốc hội sẽ ủng hộ. Vấn đề còn lại là chất lượng của đề án đầu tư công, đề án ngân sách thuyết phục ở mức nào.
Trong bối cảnh như vậy, áp lực quyết định và giám sát những vấn đề liên quan đến ngân sách, để không lãng phí dù chỉ một đồng tiền thuế của dân như Thủ tướng từng nói, của Quốc hội cũng rất lớn?
Biến động của kinh tế - xã hội do Covid-19, do chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đòi hỏi những khoản chi ngoài dự toán. Như trên đã nói, về nguồn và cơ chế, Quốc hội đã cho phép, vấn đề còn lại là Chính phủ điều hành đúng mục tiêu, đúng quy định và đại biểu giám sát sự điều hành đó.
Giám sát là cần thiết, nhưng điều quan trọng trong quản lý ngân sách nói riêng, quản lý tài sản công nói chung là phải tuân thủ pháp luật, ai làm sai phải chịu trách nhiệm đầu tiên, chứ không phải chỉ khi có giám sát mới làm đúng. Kể cả giám sát rồi, sau này thanh, kiểm tra, nếu phát hiện vi phạm thì vẫn phải xử lý.
Cũng cần nói rõ trách nhiệm giám sát không chỉ của Quốc hội, mà rộng ra là của cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, nhưng theo tôi, không nên thành lập ra quá nhiều tổ chức giám sát mà kém hiệu quả.
Khi tiếp xúc, tôi thấy có những doanh nghiệp 6 tháng mà 18-19 đoàn vào thanh, kiểm tra, giám sát, nhưng không phát hiện ra sai phạm gì, chỉ có mấy vấn đề nhỏ. Điều đó gây khó khăn cho doanh nghiệp, làm vẩn đục môi trường kinh doanh.
Vấn đề quan trọng của Việt Nam hiện tại là quản lý, sử dụng tài sản công. Tài chính công cần minh bạch, công khai để toàn dân giám sát. Như thế không tốn kém, mà lại hạn chế tiêu cực. Đó là điều cần thiết để đảm bảo kỷ cương tài chính.
Với Quốc hội, các ủy ban, các đại biểu cần đồng hành với doanh nghiệp, với Chính phủ để nghiên cứu, xem xét những vấn đề gì là mấu chốt, là nút thắt đang đe dọa sự sinh tồn của doanh nghiệp, cản trở sự phát triển của nền kinh tế, từ đó có thể phối hợp với Chính phủ trong quá trình hình thành chính sách để trình Quốc hội.
Các đại biểu cũng phải chủ động để khi Chính phủ trình Quốc hội có thể phản biện. Kể cả những vấn đề Chính phủ không trình, nhưng với tư cách đại biểu, nếu nhìn thấy cần thiết phải tạo cơ chế, thì có thể đề xuất, kiến nghị chính sách. Nhưng để làm được như vậy còn phụ thuộc vào năng lực của đại biểu, để tránh bàn quá nhiều những vấn đề đã rõ, bỏ qua các vấn đề hết sức quan trọng mà thực tế đang đòi hỏi.
Sức hấp thụ vốn: "Chốt nổ" của chứng khoán cuối năm Diễn biến thị trường chứng khoán từ nay đến cuối năm sẽ phụ thuộc đáng kể vào khả năng "tiêu hóa" vốn nhanh hay chậm của các doanh nghiệp. Dư địa nới lỏng chính sách tiền tệ vẫn còn Thời điểm hiện tại, xét cả bối cảnh thế giới cũng như trong nước, dư địa cho nới lỏng chính sách tài khóa và...