20 năm phát triển thành kênh huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế
Trước đây, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Sau 20 năm phát triển ổn định, bền vững và chuyên nghiệp, thi trương chưng khoán (TTCK) Việt Nam là kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng của nền kinh tế.
Trong bối cảnh thế giới toàn cầu chịu nhiều khó khăn và biến động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007, tác động tiêu cực của sự kiện Brexit; căng thẳng thương mại Mỹ – Trung; những bất ổn về địa chính trị tại một số khu vực, cũng như đại dịch cúm COVID-19…, TTCK Việt Nam vẫn không ngừng phát triển ổn định, an toàn và bền vững sau 20 năm hình thành và đi vào hoạt động, trơ thành môt kênh đâu tư hiêu qua.
Hai mươi năm trước, phiên giao dịch đầu tiên của thị trường chứng khoán Việt Nam vào ngày 28/7/2000 với hai mã cổ phiếu là REE và SAM, đánh dấu một mốc lịch sử của thị trường chứng khoán Việt Nam. Trải qua 20 năm phát triển, đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ, số lượng công ty niêm yết, đăng ký giao dịch trên hai sở giao dịch chứng khoán là 1.647 công ty, với giá trị niêm yết/đăng ký giao dịch là 1428 nghìn tỷ đồng.
Nếu như năm 2000, hầu hết vốn của các doanh nghiệp (DN) được vay từ hệ thống ngân hàng, dư nợ tín dụng là khoảng 40% GDP, hoạt động huy động vốn trên TTCK hầu như chưa xuất hiện. Vốn huy động qua thị trường chứng khoán ban đầu chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ so với cung tín dụng (năm 2010 chỉ đạt 11%) nhưng sau đó đã có sự cải thiện nhanh chóng nhờ các chính sách phát triển thị trường chứng khoán.
Vai trò quan trọng của sự phát triển ổn định và bền vững về mặt quy mô của TTCK Việt Nam còn thể hiện ở thời điểm khó khăn nhất trong giai đoạn khủng hoảng toàn cầu năm 2008, đã cho thấy cấu trúc hệ thống thị trường tài chính nước ta đang đi theo xu thế chung của thế giới với một cấu trúc cân bằng hơn giữa thị trường tiền tệ – ngân hàng và thị trường vốn (thị trường chứng khoán), bảo đảm sự ổn định của cả hệ thống tài chính.
Mặc dù sau đó, giai đoạn 2008-2009, các chỉ số thị trường giảm mạnh do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu, tuy nhiên số lượng Công ty nhiêm yết (CTNY) vẫn tăng đều đặn hàng năm. Đặc biệt sau khi, SGDCK Hà Nội khai trương vận hành thị trường giao dịch chứng khoán công ty đại chúng chưa niêm yết (UpCOM) (ngày 24/6/2009), số lượng CTNY, đăng ký giao dịch trên SGDCK tăng lên rất nhanh. Đến nay, con số đã là hơn một nghìn DN. Tính đến cuối năm 2019, TTCK Việt Nam có 1.622 mã cổ phiếu, chứng chỉ quỹ niêm yết/đăng ký giao dịch; trong đó có 750 cổ phiếu, CCQ niêm yết trên cả 2 SGDCK và 872 cổ phiếu đăng ký giao dịch trên Upcom, vốn hóa trên TTCK Việt Nam đạt khoảng 4.384 nghìn tỷ đồng, tương đương 72,6% GDP năm 2019.
Nhờ vào sự phát triển của TTCK, các ngân hàng thương mại (NHTM) huy động được lượng vốn lớn qua phát hành cổ phiếu để đáp ứng yêu cầu tăng vốn điều lệ theo quy định của NHNN trong tiến trình tái cấu trúc hệ thống các NHTM. Từ năm 2005 đến nay, thông qua TTCK các NHTM đại chúng đã huy động được hơn 252 nghìn tỷ đồng qua phát hành cổ phiếu, giúp các NHTM tăng tổng vốn điều lệ từ 20,6 nghìn tỷ đồng lên khoảng 272 nghìn tỷ đồng. Thậm chí, trong giai đoạn khó khăn nhất của hệ thống này từ năm 2009 đến 2014, TTCK đã giúp các NHTM huy động được 74 nghìn tỷ đồng. Không chỉ trực tiếp hỗ trợ, làm tăng vốn khả dụng của các NHTM, TTCK còn gián tiếp hỗ trợ cung vốn cho nền kinh tế trong giai đoạn nguồn vốn từ các NHTM bị hạn chế do quá trình tái cấu trúc các tổ chức này.
Video đang HOT
Có thể nói, qua 20 năm, dù diễn biến TTCK có lúc thăng, lúc trầm nhưng ngành Chứng khoán Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng chú ý, đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng nền tài chính, tiền tệ lành mạnh, ổn định, thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và góp phần bảo vệ và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán.
Cần giải pháp đồng bộ phát triên TTCK trong thời gian tới
Mặc dù TTCK đã có những bước tiến vượt bậc nhưng hiện nay, nguôn vôn ngân hàng vẫn đang là kênh huy đông vôn chính cua các doanh nghiêp; tính minh bạch, công khai trên thị trường còn tồn tại nhiều vấn đề cần tiếp tục được cải thiện. Các công ty đại chúng vẫn chưa chủ động trong việc công khai hóa các thông tin về tình hình hoạt động, tình hình sử dụng vốn, tình hình quản trị công ty; Công tác triển khai cổ phần hóa, thoái vốn đã được đẩy mạnh, tuy nhiên tỉ lệ sở hữu Nhà nước còn cao, tỷ lệ chào bán ra bên ngoài của DNNN còn thấp, phương thức chưa linh hoạt nên chưa thực sự hấp dẫn nhà đầu tư chuyên nghiệp, chưa tạo ra sự thay đổi lớn về quản trị công ty; việc khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào TTCK Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn do quy trình, thu tuc tham gia đâu tư đôi vơi nhà đâu tư nươc ngoài còn tương đôi phưc tap, chưa thực sự hạn chế rủi ro và bảo vệ lợi ích nhà đầu tư khi tham gia thị trường chứng khoán…
Để khắc phục những hạn chế, tồn tại của thị trường chứng khoán, một số định hướng, giai pháp phát triên TTCK trong thời gian tới được đề ra, đó là:
Thứ nhất, tạo nguôn cung hàng hóa có chât lương cao trên thi trương, nâng cao tiêu chuân đôi vơi các doanh nghiêp niêm yêt, thúc đẩy cổ phần hóa các DNNN và gắn cổ phần hóa với đăng ký giao dịch và niêm yết trên TTCK; đồng thời chú trong phát triên các san phâm chưng khoán mơi như chưng khoán phái sinh, Chứng quyền, Chứng chỉ quỹ… Đối với thị trường trái phiếu, sẽ đẩy mạnh sự phát triển của thị trường TPCP, đa dạng hóa các sản phẩm trái phiếu; phát triển hệ thống nhà tạo lập thị trường trên thị trường TPCP sơ cấp. Bên cạnh đó, sẽ phát triển thị trường TPDN theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế.
Đối với TTCK phái sinh, UBCKNN đã xây dựng lộ trình và dự kiến sẽ sớm đưa thêm nhiều sản phẩm phái sinh vào giao dịch,
Bên cạnh các sản phẩm hợp đồng tương lại (HĐTL) trên các chỉ số mới (ngoài chỉ số VN30) sẽ có thêm các sản phẩm hợp đồng quyền chọn (HĐQC) chỉ số, HĐTL/HĐQC cổ phiếu đơn lẻ; quyền chọn trên HĐTL… Xa hơn nữa có thể nghiên cứu và xin phép Chính phủ được tổ chức giao dịch các sản phẩm HĐTL/HĐQC niêm yết trên các tài sản cơ sở khác ngoài chứng khoán như tỷ giá, lãi suất và hàng hóa…
TTCK se thu hút đươc nhà đâu tư tham gia thi trương vơi muc đích đâu tư dài han, han chê tình trang tham gia thi trương, đâu cơ kiêm lơi ngăn han.
Thứ hai, tiêp tuc đây manh sư phát triên cua các quỹ đầu tư nhăm thu hút dòng vôn nhàn rôi trong và ngoài nươc hương vào TTCK. Như vậy, sẽ hình thành trên TTCK những nhà đầu tư chuyên nghiệp, tạo được dòng vốn lớn và dài hạn chảy trong TTCK, khăc phuc tính trang đâu tư theo tâm lý khi nhà đầu tư nhỏ lẻ vẫn chiếm đa số.
Thư ba, tiếp tục nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý, giám sát TTCK của các cơ quan quản lý nhà nước và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm và yêu cầu các thành viên thị trường phải tiếp tục tích cực tự tái cấu trúc nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật.
Thứ tư, cần triển khai các giải pháp nâng hạng TTCK Việt Nam từ hạng frontier market lên hạng emerging market trên bảng xếp hạng MSCI và FTSE. Nâng cao chất lượng hệ thống cung cấp trao đổi thông tin, đảm bảo quyền bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin của nhà đầu tư nước ngoài thông qua việc xây dựng và thường xuyên cập nhật thông tin trang thông tin bằng tiếng Anh của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các Sở Giao dịch chứng khoán. Khuyến khích các công ty đại chúng thực hiện công bố thông tin bằng tiếng Anh.
Thứ năm, tăng cường vai trò của các hội nghề nghiệp trong phát triển thị trường như phối hợp với các hội nghề nghiệp ban hành các bộ quy chuẩn chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp, kiểm tra giám sát việc thực thi các bộ quy chuẩn nhằm nâng cao chất lượng hành nghề và đạo đức nghề nghiệp của các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường chứng khoán; nâng cao vai trò của các hội nghề nghiệp trong việc tuyên truyền, đào tạo chuyên môn và pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020 có thể đạt 2,6%
Báo cáo của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) sử dụng 2 kịch bản dự báo cho kinh tế Việt Nam năm 2020. Theo đó, tăng trưởng có thể đạt mức 2,1% theo kịch bản 1 và 2,6% trong kịch bản 2.
Ngày 10/7, với sự hỗ trợ của Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform), Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức Hội thảo "Kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2020: Tinh thần kiến tạo trong bối cảnh bình thường mới". Tại đây, những ảnh hưởng liên quan đến kinh tế trước đại dịch Covid-19 được nhiều chuyên gia phân tích.
Sức chống chịu của kinh tế Việt Nam đã tốt hơn rất nhiều
Chia sẻ tại Hội thảo, TS. Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng CIEM cho biết, Việt Nam là nền kinh tế đang phát triển, dựa đáng kể vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, do vậy, chịu nhiều hệ lụy cả trực tiếp và gián tiếp từ đại dịch Covid-19. Nền kinh tế thể hiện ở suy giảm tăng trưởng, xuất khẩu tăng chậm dần, hoạt động của doanh nghiệp, tình hình lao động - việc làm.
Trong bối cảnh đó, Chính phủ cũng đã quyết liệt chỉ đạo thực hiện mục tiêu kép, vừa phòng chống dịch vừa hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân, kích thích phục hồi kinh tế. Dư địa điều hành tài khóa và tiền tệ vẫn còn để có thể ứng phó với các kịch bản kinh tế trong thời gian tới. "So với nhiều năm trước, đặc biệt là giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009, thì kinh tế Việt Nam những năm gần đây đã thể hiện sức chống chịu tốt hơn rất nhiều", Viện trưởng CIEM nhận định.
Liên quan đến vấn đề này, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp (CIEM) đại diện nhóm nghiên cứu cho biết, trong 6 tháng đầu năm 2020, đại dịch Covid-19 và các biện pháp phòng chống đã kéo theo hệ lụy nghiêm trọng chưa từng thấy đối với nhiều ngành, hoạt động kinh tế (như du lịch, giao thông vận tải, thương mại, xuất nhập khẩu, đầu tư, tài chính...). Nhiều tổ chức quốc tế đồng loạt hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2020, với những đánh giá ở mức độ rất nghiêm trọng. Trong bối cảnh ấy, kinh tế Việt Nam cũng gặp khó khăn nghiêm trọng.
Cũng theo ông Nguyễn Anh Dương, các số liệu được công bố đến tháng 6 có thể chưa phản ánh đầy đủ những hệ lụy nghiêm trọng của đại dịch Covid-19 đến kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam. Nguyên nhân có thể do chính phủ nhiều nước (kể cả Việt Nam) đã sớm ban hành những biện pháp hỗ trợ, hoặc do đại dịch mới diễn ra trong thời gian ngắn nên chưa thể nhìn nhận và đánh giá các tác động của đại dịch một cách đầy đủ.
2 kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2020
Cũng tại Hội thảo, Báo cáo của CIEM do ông Nguyễn Anh Dương - Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp của CIEM trình bày đã đưa ra 2 kịch bản dự báo cho kinh tế Việt Nam năm 2020. Theo đó, tăng trưởng có thể đạt mức 2,1% theo kịch bản 1, và 2,6% trong kịch bản 2. Xuất khẩu cả năm dự báo giảm 3,1% trong kịch bản 1 và giảm 1,9% trong kịch bản 2 (so với năm 2019). Thặng dư thương mại dự báo tương ứng ở các mức 1,7 tỷ USD và 2,1 tỷ USD. Lạm phát bình quân năm 2020 lần lượt đạt 4,3% và 4,5%.
Bên cạnh việc đưa ra những dự báo tăng trưởng, báo cáo của CIEM cũng tập trung phân tích những diễn biến của đại dịch COVID-19, những phản ứng chính sách của Việt Nam nhằm ngăn chặn và ứng phó hiệu quả với hệ lụy của đại dịch. Việt Nam đã tạo dựng được niềm tin của người dân, doanh nghiệp đối với công tác phòng chống dịch, đặc biệt trên phương diện điều hành gắn với "mục tiêu kép".
Tuy được đánh giá cao về kết quả phòng chống dịch và có cơ hội phục hồi kinh tế sớm, nhưng báo cáo của CIEM vẫn đưa ra khuyến cáo rằng, Việt Nam cần thận trọng trong đánh giá tình hình các tháng cuối năm, đồng thời thực hiện các nhóm giải pháp phù hợp để vừa thúc đẩy phục hồi kinh tế, giữ mạch cải cách, và bảo đảm an sinh xã hội.
Dự kiến trong 6 tháng cuối năm 2020, kinh tế Việt Nam có thể chịu ảnh hưởng của một số yếu tố như kinh tế thế giới còn rất bất định, đặc biệt là khả năng bùng phát lần thứ hai của dịch Covid-19; việc nhiều nền kinh tế thực hiện các gói hỗ trợ quy mô lớn, trong khi thiếu điều phối ở cấp độ toàn cầu, có thể gây ra những rủi ro không nhỏ đối với thị trường tài chính thế giới và tình trạng nợ toàn cầu. Căng thẳng thương mại giữa các nền kinh tế lớn có thể diễn biến phức tạp hơn.
Bên cạnh đó, dù kỳ vọng nhiều vào tác động tích cực của EVFTA, Việt Nam có thể phải đối mặt với các vụ kiện phòng vệ thương mại, điều tra chống lẩn tránh thuế, gian lận xuất xứ,... ở một số thị trường và mức độ thích ứng của doanh nghiệp đối với thị trường trong nước có thể ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và tiêu thụ trong bối cảnh đại dịch COVID-19.
Tạo lực đẩy cho nền kinh tế: Nới nợ công, cứu tổng cầu Để tạo lực đẩy cho "cỗ xe tam mã" của nền kinh tế, cần nới rộng tỷ lệ nợ công/GDP, cứu tổng cầu đang xuống thấp và tạo điều kiện phát triển các mô hình kinh doanh mới. Song song với nới room nợ công, Việt Nam cần hướng đến kích thích nền kinh tế đồng bộ, vừa tăng đầu tư vào hạ...