14 sản phẩm thất bại ê chề nhất trong lịch sử Google
Thành công lớn của Google không đồng nghĩa với việc hành trình chinh phục người dùng của họ hoàn toàn bằng phẳng.
Không có bất kì một công ty nào trên thế giới có một danh mục sản phẩm hoàn hảo và đặc biệt với những công ty thích những ý tưởng mới như Google thì sự thất bại dường như là… hiển nhiên. Dưới đây là 14 thất bại lớn nhất trong lịch sử Google.
14. Google Offers
Vòng đời: 2011 – 2014
Google Offers ra mắt trong thời kì hoàng kim của các dịch vụ như Groupon hay Living Social và khi xu hướng cung cấp mã giảm giá hay coupon giảm nhiệt thì Google Offers cũng không còn giữ được chỗ đứng của mình.
13. Google Web Accelerator
Vòng đời: 2005 – 2008
Google Web Accelerator ra đời với mục tiêu giúp người dùng tăng tốc độ duyệt web bằng cách giảm thời gian tải trang. Sản phẩm này dù vậy dính quá nhiều lỗi, bao gồm cả vêic không chạy được video trên YouTube. Nó bị Google khai tử năm 2008.
12. Google Video
Vòng đời: 2005 – 2009
Khi YouTube bắt đầu thu hút được sự chú ý vào năm 2005, Google quyết định ra mắt dịch vụ video của riêng mình – Google Video. Một năm sau đó, Google Video thể hiện sự “bất lực”của mình trong việc cạnh tranh và Google thực hiện mua lại YouTube với giá 1,65 tỷ USD. Tính đến tháng 5 năm 2018, YouTube có 1,8 tỷ người dùng hoạt động hàng tháng.
11. Jaiku
Vòng đời: 2007 – 2012
Jaiku là một dịch vụ blog được phát triển ở Phần Lan mà Google mua lại năm 2007 để cạnh tranh với Twitter. Đến năm 2009, Google công bố sẽ cung cấp mã nguồn Jaiku dưới dạng mở và sẽ không còn duy trì phát triển dịch vụ này nữa. Do thiếu người dùng, cuối cùng thì Jaiku đóng cửa vào năm 2012.
10. Google Health
Video đang HOT
Vòng đời: 2008 – 2012
Google Health cho phép người dùng cho phép người dùng nhập vào các thông tin sức khỏe của mình với mục tiêu trở thành một nơi lưu trữ dữ liệu sức khỏe tổng hợp để cung cấp nhanh cho các đơn vị cung cấp dịch vụ thăm khám, sức khỏe. Các quan ngại về bảo mật và sự cạnh tranh lớn trong lĩnh vực này là một vài lý do khiến Google không còn hứng thú duy trì Google Health.
9. Google Answers
Vòng đời: 2002 – 2006
Google Answers cho phép người dùng gửi lên các câu hỏi và đưa ra số tiề.n cụ thể họ sẵn sàng trả để nhận được câu trả lời. Người dùng theo đó có thể phải bỏ ra từ 2 USD đến 200 USD cho mỗi câu trả lời mình nhận được – và Google giữ lại một phần trong số này. Không thu hút được số lượng người dùng đủ lớn, Google Answers đóng cửa năm 2006.
8. Google X
Vòng đời: 16 tháng 3 năm 2005
Là một giao diện thay thế cho Google Search, Google X cho phép người dùng tìm kiếm dựa trên các danh mục như Groups, Local hay Images. Dịch vụ này chỉ được đưa lên công khai trong đúng một ngày và đến nay tên gọi Google X được sử dụng cho bộ phận nghiên cứu của Google.
7. Google Buzz
Vòng đời: 2010 – 2011
Google Buzz là một sự giao thoa giữa mạng xã hội và dịch vụ nhắn tin nhanh khi cho phéo người dùng chia sẻ đường dẫn, hình ảnh, video, trạng thái… Những “cuộc hội thoại” diễn ra và được sắp xếp bên trong Gmail. Google về sau biến Buzz thành một tính năng mặc định cho người dùng Gmail và nhận được sự phản đối lớn từ phía người dùng. Thậm chí, hãng này còn phải đối mặt với vụ kiện liên quan đến quan ngại về bảo mật, Buzz đóng cửa 18 tháng sau ngày ra mắt.
6. Google Lively
Vòng đời: Tháng 7 năm 2008 – Tháng 12 năm 2018
Ra mắt vào tháng 7 năm 2008 và đóng cửa vào tháng 12 cùng năm, Google Lively là một thế giới ảo chạy trên môi trường web. Thời điểm đó, The New York Times bình luận dịch vụ này như thể là một cách “như kiểu hoạt hình để trò chuyện trong các chat room.” Google chia sẻ họ nhận được khá nhiều tán dương cho sản phẩm Google Lively nhưng vẫn quyết định đóng cửa nó chỉ sau bốn tháng rưỡi để “tập trung nguồn lực và tập trung thêm vào các sản phảm lõi như tìm kiếm, quảng cáo và ứng dụng.”
5. Knol
Vòng đời: 2008 – 2012
Knol là cách đáp trả của Google với Wikipedia. Knol theo đó là một thuật ngữ được Google tạo ra với ý nghĩa là “đơn vị tri thức”. Với mục tiêu trở thành nơi người dùng chia sẻ các bài viết về nhiều lĩnh vực, Knol rất tiếc lại không có số lượng người dùng đủ lớn và đóng cửa năm 2012.
4. Dodgeball
Vòng đời: 2005 – 2009
Được Google thâu tóm vào năm 2005, Dodgeball là dịch vụ cho phép người dùng check-in các địa điểm bằng tin nhắn văn bản. Hai người đồng sáng lập của Dodgeball là Alex Rainert và Dennis Crowley rời Google tháng 4 năm 2007 liên quan đến những bất đồng với công ty này bởi Google “không dành nhiều sự chú ý cho Dodgeball như những gì nó xứng đáng.” Crowley sau đó sáng lập Foursquare năm 2009 – cùng năm Dodgeball đóng cửa.
3. Google Glass
Vòng đời: 2012 – chưa rõ
Kính thông minh Google Glass được Google phát triển với ứng dụng đầy tham vọng là đưa các thông tin số vào thế giới thực của con người.
Với giá thành cao (1.500 USD/ chiếc), phần mêm chưa hoàn thiện và ngoại hình khá kì quặc, Google dừng bán kính Google Glass thế hệ đầu vào năm 2015.
2. Nexus Q
Vòng đời: Chưa được tung ra thị trường đại trà
Nexus Q là một sản phẩm hỗ trợ streaming video cho phép người dùng chơi các nội dung từ YouTube hay Google Music trên TV. Được công bố tại sự kiện Google I/O vào năm 2012 với giá bán 299 USD, Nexus Q không được đón nhận nồng nhiệt bởi mức giá cao trong khi đó tính năng lại hạn chế.
1. Google Wave
Vòng đời: 2009 – 2012
Được tạo ra bởi những người đã phát triển Google Maps, Goolgle Wave có một mục tiêu tham vọng là tái định hình email với nhiều tính năng cho phép làm việc nhóm trên các tài liệu. Thế nhưng, người dùng nhanh chóng cảm thấy Wave quá khó sử dụng và Google dừng phát triển thêm ứng dụng này vào năm 2010. Đến năm 2012, Wave chính thức đóng cửa.
Theo Báo Mới
Âm thầm tiến bước, doanh thu ngoài quảng cáo của Google đã đạt 15,5 tỷ USD trong năm 2017
Không thể ngờ, 10 năm trước, mảng kinh doanh ngoài quảng cáo của Google chỉ mới đạt 667 triệu USD, chiếm 3% tổng doanh thu của công ty.
Mảng kinh doanh quảng cáo trực tuyến của Google mang lại hàng chục tỷ USD mỗi năm. Nhưng công ty đang chuẩn bị cho một sự chuyển biến lớn trong mảng kinh doanh này.
Trước cả khi mọi người kịp nhận ra điều đó, quá trình chuyển đổi mảng kinh doanh này đã diễn ra lâu nay, tính từ lúc các nỗ lực tiến sang những mảng kinh doanh khác của Google và công ty mẹ, Alphabet bắt đầu thu được thành quả.
Biểu đồ dưới đây của hãng nghiên cứu Statista cho thấy rõ rệt điều này, khi nó minh họa doanh thu của Alphabet và Google từ những nguồn thu ngoài quảng cáo. Chỉ trong vòng 10 năm gần đây, mảng kinh doanh ngoài quảng cáo đã tăng trưởng từ chỗ không có gì đáng kể, nay đã đạt tới 14% tổng doanh thu.
Từ mức đóng góp 3,1% vào năm 2008, doanh thu ngoài quảng cáo của Google đã chiếm 14% tổng doanh thu trong năm 2017.
Năm ngoái, mảng kinh doanh ngoài quảng cáo này đã mang lại 15,5 tỷ USD - lớn hơn gấp 4 lần doanh thu trong năm ngoái của Twitter và Snapchat cộng lại.
Từ lâu Google đã biết rằng, một ngày nào đó mảng kinh doanh quảng cáo sẽ đạt đến điểm tới hạn và tăng trưởng sẽ chậm lại. Trong khi đó, phố Wall thích các công ty tăng trưởng, và Google đang nỗ lực giành lấy thị phần trong các lĩnh vực kinh doanh khác.
Doanh thu ngoài quảng cáo của Google đến từ đâu?
Google Cloud là mảng lớn nhất trong lĩnh vực này. Trên thực tế, các giám đốc của Google trước đây từng cho biết họ tin rằng, một ngày nào đó việc bán quyền truy cập vào đám mây của Google sẽ vượt qua quảng cáo để trở thành nguồn doanh thu chính cho Google.
Trong lĩnh vực đám mây, Google đang phải đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt từ các đối thủ như Amazon và Microsoft. Không những vậy, gần đây, trước phản ứng dữ dội từ các nhân viên của mình, Google đã buộc phải từ bỏ các hợp đồng hỗ trợ quân đội Mỹ đầy béo bở.
Một số nguồn doanh thu khác của Google còn có Google Fiber, dịch vụ internet băng thông rộng tốc độ cao của họ cùng với doanh thu từ việc bán các thiết bị điện tử tiêu dùng như Google Home, hay Pixel Slate.
Bên cạnh đó còn có nguồn thu đến từ khoản chia 30% cho các giao dịch bán ứng dụng, nhạc và phim trên Google Play Store, nơi được xem như trung tâm nội dung kỹ thuật số chính của các thiết bị Android.
Trong tuần vừa qua, Google cho biết, họ sẽ cho phép các nhà sản xuất smartphone và tablet bán ở châu Âu không buộc phải cài đặt Play Store lên thiết bị Android nếu họ không muốn như vậy (do sức ép từ cuộc điều tra chống độc quyền của EU). Đây là một thay đổi quan trọng và sẽ cần có thời gian để xem liệu nó sẽ tác động như thế nào đến nỗ lực của Google nhằm gây dựng mảng kinh doanh ngoài quảng cáo.
Những người hoài nghi từng chế nhạo nỗ lực này của Google, khi thấy họ đầu tư vào các dự án moonshot hay những giấc mộng khoa học viễn tưởng. Nhưng các con số trên đã cho thấy rằng nỗ lực và khoản đầu tư của họ đã bắt đầu mang lại các thành quả xứng đáng.
Theo dữ liệu của Statista, tổng doanh thu ngoài quảng cáo của Google trong năm 2008 đạt 667 triệu USD, tương đương 3,1% tổng doanh số. Như đã nói ở trên, năm ngoái con số này đã đạt tới 15,5 tỷ USD, chiếm 14% tổng doanh số của công ty mẹ Alphabet.
Cho dù các mảng kinh doanh đa dạng ngoài quảng cáo của Alphabet vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức có thể làm chậm đà tăng trưởng, khoản chi tiêu khổng lồ cho R&D của công ty cho thấy họ đang đặt nhiều nỗ lực vào hoạt động này để sau đó có thể được đền bù xứng đáng.
Đầu năm nay, nhà phân tích Eric Sheridan của hãng UBS từng cho biết rằng, mảng kinh doanh xe tự lái Waymo của Alphabet có thể có giá trị lên tới 135 tỷ USD. Bộ phận này dự kiến sẽ bắt đầu hoạt động thương mại hóa ở Arizona trước cuối năm nay.
Theo Tri Thuc Tre
Ở châu Âu, các nhà sản xuất Android sẽ phải trả tới 40 USD/thiết bị để có bộ ứng dụng Google Các tài liệu vừa rò rỉ gần đây đã cho chúng ta biết một số thông tin về các loại phí Google sẽ áp đặt lên các nhà sản xuất điện thoại Android tại châu Âu. Theo AndroidAuthority, vào đầu tuần này, Google đã công bố sẽ tái cơ cấu mô hình kinh doanh xoay quanh hệ điều hành Android đối với các...