Xuất ngoại… tre xanh
Với người Việt, hình ảnh lũy tre xanh có lẽ đã không còn xa lạ, tre đi vào văn thơ, tre gắn bó với từng chi tiết nhỏ của đời sống người dân nông thôn, tre giúp nhiều làng nghề tồn tại. Làm thế nào để khai thác vẻ đẹp tiềm ẩn trong những thân tre óng ả, mang về ngoại tệ cho đất nước mà vẫn đảm bảo các yêu cầu của thị trường nhập khẩu đang là những vấn đề đặt ra.
Quyết định sự sống còn của nhiều làng nghề
Theo báo cáo của Vụ Phát triển rừng (Tổng cục Lâm nghiệp – Bộ NNPTNT), Việt Nam có khoảng 216 loài tre trúc với diện tích hơn 1,39 triệu hecta, trữ lượng ước tính 7,5 tỷ cây. Trong số 63 tỉnh thành trong cả nước, có tới 37 địa phương có diện tích trồng tre, nứa tập trung, song chỉ có 23 tỉnh đạt diện tích trên 10.000ha. Thanh Hóa, Nghệ An là hai tỉnh có diện tích tre nứa tương đối lớn, 110.000ha và 217.000ha.
Những sản phẩm mây tre đan xuất khẩu tiêu biểu.
Tre nứa là nguồn nguyên liệu quan trọng, ảnh hưởng đến sự sống còn của nhiều làng nghề truyền thống. Theo thống kê chưa đầy đủ, đến nay có hơn 723 làng nghề sản xuất liên quan đến các sản phẩm từ cây tre, tạo công ăn việc làm cho hơn nửa triệu lao động, mang lại giá trị sản xuất và tiềm năng xuất khẩu hàng hóa lớn và kim ngạch xuất khẩu khoảng 350 triệu USD/năm. Chỉ riêng tại trị trường Ấn Độ, 5 tháng đầu năm 2018, xuất khẩu sản phẩm mây tre, cói thảm đã tăng 1.549% so với cùng kỳ.
Theo Tiến sỹ Đoàn Văn Thu, Phó Giám đốc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, hiện sản phẩm từ cây tre Việt Nam đang có mặt tại 120 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới nhất là các nước thuọc Liên minh Châu Âu. Bên cạnh đó, cây tre còn đóng góp tích cực trong việc hấp thu cacbon, chống xói mòn đất, góp phần quan trọng trong việc giảm thiểu các tác nhân biến đổi khí hậu. Ngoài ra, phần quan trọng trong việc giảm thiểu các tác nhân biến đổi khí hậu.
“Đáng nói là, rừng mây tre chủ yếu phân bố ở các vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đời sống kinh tế khó khăn. Đối tượng liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất trong chuỗi giá trị tre chủ yếu là người sản xuất quy mô nhỏ thuộc diện nghèo, và các doanh nghiệp chế biến vừa và nhỏ. Do đó, việc phát triển ngành tre không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, mà còn góp phần bảo vệ môi trường,” Tiến sỹ Đoàn Văn Thu nhấn mạnh.
Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành một số chính sách có liên quan đến phát triển cây tre, điển hình là Quyết định số 11/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 18/2/2011 về chính sách khuyến khích phát triển ngành mây tre. Tuy nhiên, ngành sản xuất sản phẩm từ cây tre của Việt Nam đang phải đối diện với rất nhiều thách thức, trong đó có các thách thức liên quan đến rào cản kỹ thuật, thách thức về phương thức kinh doanh tập thể và cải thiện hiệu quả kinh doanh, thách thức về khả năng tiếp cận thị trường, tiếp cận tài chính và quản trị trong chuỗi giá trị của người sản xuất quy mô nhỏ, của các doanh nghiệp chế biến và kinh doanh quy mô vừa và nhỏ.
Video đang HOT
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Nam Sơn, đại diện Tổng Cục Lâm nghiệp cho hay, Việt Nam được xác định nằm ở trung tâm vùng phân bố mây tre của thế giới với thành phần loài rất phong phú và đa dạng với khoảng 250 loài tre nứa, 46 loài mây song.
Song ông Sơn cũng thừa nhận, hiện vẫn còn nhiều khó khăn do chưa hình thành được các vùng nguyên liệu, chưa có một chiến lược, quy hoạch phát triển ngành mây tre nên việc phát triển còn tự phát, nhất là các nhà máy chế biến, nhiều nhà máy chế biến mới được xây dựng với thiết bị và công nghệ lạc hậu.
Xây dựng chuỗi giá trị bền vững
Tiềm năng phát triển của nghề mây tre đan còn tương đối lớn.
Với những tiềm năng thế mạnh trên, xây dựng và phát triển ngành mây tre hình thành theo chuỗi đang là một xu hướng tất yếu để nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng chinh phục các thị trường “khó tính” trên thế giới.
Theo bà Babeth Ngọc Hân Lefur, Giám đốc Tổ chức Oxfam tại Việt Nam: “Thu nhập của những người sản xuất quy mô nhỏ sẽ được cải thiện khi sản phẩm của họ đáp ứng được những tiêu chuẩn về chất lượng và sản xuất bền vững, năng lực đàm phán của họ với các công ty chế biến và thương mại được nâng cao, từ đó tiếp cận hiệu quả hơn tới thị trường trong nước và quốc tế”.
Tiến sỹ Phan Văn Thắng, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Lâm sản ngoài gỗ cũng khẳng định: “Muốn nâng cao giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm từ tre nứa, chúng ta phải tuân thủ nghiêm các tiêu chuẩn bền vững trong chuỗi sản xuất các sản phẩm này. Các thị trường quốc tế có đòi hỏi cao; đó là thách thức nhưng cũng là cơ hội vì khi chúng ta đáp ứng được những tiêu chuẩn đó, người sản xuất và doanh nghiệp chế biến không những tăng được thu nhập mà còn giúp đóng góp vào việc khai thác vùng nguyên liệu theo hướng bền vững và đóng góp cho an sinh xã hội”.
Hầu hết các quốc gia châu Âu, Nhật Bản, Mỹ đều có quy định về nhập khẩu sản phẩm từ mây, tre đan và thủ công mỹ nghệ, trong đó đặc biệt là các quy định lên quan đến bảo vệ môi trường. Theo đó các nước sẽ kiểm soát nguồn gốc nguyên liệu, kiểm soát các loại côn trùng gây bệnh, lây nhiễm trong sản phẩm (nhất là không hun, sấy đúng quy trình, kỹ thuật). Vì vậy, các doanh nghiệp khi xuất khẩu cần chú ý điều này để đạt hiệu quả cao nhất.
Theo Danviet
Đổi đời nhờ làm nghề cũ bằng... phương pháp mới
Hàng nghìn nông dân của tỉnh Hà Nam đã cập nhật được phương pháp sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Chính vì vậy, dù vẫn làm nghề cũ nhưng nhiều hộ đã "đổi đời" nhờ đạt được năng suất cao hơn trước.
85% học viên tìm được việc
Ông Tống Văn Tam - Phó Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Hà Nam cho biết, hàng năm, toàn tỉnh đã tổ chức dạy nghề và phối hợp với các ngành chức năng mở các lớp tập huấn cho trên 10.000 lượt người. Trong đó, riêng Trung tâm Dạy nghề Hội Nông dân tỉnh đã trực tiếp dạy nghề cho 1.200 lượt nông dân.
Dạy nghề tiểu thủ công nghiệp cho nông dân Hà Nam. Ảnh: Minh Nguyệt
"Giai đoạn 2016 - 2020, toàn tỉnh sẽ đào tạo cho khoảng 86.900 lao động; nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề lên 55% vào năm 2020; giải quyết việc làm mới cho khoảng 81.600 lao động, tạo việc làm thêm cho khoảng 100.000 người". Theo Sở LĐTBXH tỉnh Hà Nam
Từ đầu năm 2018 đến nay, hàng chục lớp dạy nghề trình độ sơ cấp, trung cấp cho nông dân đã được khai giảng. Một số ngành nghề được nông dân trong tỉnh đăng ký tham gia học nhiều như: nghề may công nghiệp, chăn nuôi, trồng trọt, cơ khí, tin học, trồng nấm, thêu ren, mây tre đan...
"Đến nay, sau 6 tháng triển khai, Hội Nông dân tỉnh cùng các đơn vị trực thuộc đã tổ chức được 157 lớp dạy nghề cho gần 6.000 lượt nông dân. Học viên đăng ký theo học nghề ở bậc sơ cấp, sau khi học nghề đã có khoảng 85% lao động có việc làm ổn định. Từ đó, thu nhập của các hộ gia đình được nâng cao, chất lượng đời sống được đảm bảo đầy đủ hơn" - ông Tam nói.
Ông Hoàng Ngọc Đại - Giám đốc Trung tâm Dạy nghề Hội Nông dân tỉnh cho biết, sau hơn 5 năm (2013 - 2018) triển khai, Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân tỉnh đã trực tiếp tổ chức được 39 lớp dạy nghề cho 1.351 người. Trong đó, dạy nghề theo Quyết định số 1956 của Thủ tuớng Chính phủ được 36 lớp với 1.228 lượt người được đào tạo, trong đó nghề nông nghiệp có 595 người; nghề phi nông nghiệp có 633 người.
Tổng số kinh phí được cấp để dành riêng cho hoạt động này là gần 2 tỷ đồng. Trong đó, nguồn kinh phí do Trung ương Hội Nông dân Việt Nam cấp 600 triệu đồng; kinh phí của tỉnh cấp gần 1,4 tỷ đồng. Đối với nguồn kinh phí dạy nghề hàng năm được cấp, trung tâm đã dành phần lớn chi phí để mở các lớp nghề nông nghiệp, phi nông nghiệp tại các địa phương.
Chủ động lựa chọn nghề
Ông Tam cho rằng điều quan trọng tạo nên thành công trong công tác dạy nghề chính là giao quyền tự chủ cho các địa phương. Tại nhiều nơi, bà con nông dân đã được khảo sát nhu cầu học, sau đó, đối chiếu với quy hoạch phát triển kinh tế địa phương để xác định nghề học, chương trình học. Dù học ngành gì, mục tiêu vẫn gắn học với việc làm. Công tác dạy nghề cũng chỉ thực hiện khi đã chắc chắn có đầu ra cho học viên.
Là địa phương làm tốt công tác dạy nghề, Hội Nông dân huyện Thanh Liêm đã tích cực phối hợp với các ngành tổ chức tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật cho hơn 35.600 hội viên, trong đó hội trực tiếp tập huấn 2.000 hội viên. Huyện Từ Liêm còn xây dựng mới 55 mô hình về phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường và phối hợp với Trung tâm Dạy nghề của tỉnh, huyện tổ chức dạy nghề cho 1.410 lao động. Những ngành nghề được đào tạo chủ yếu là: thêu ren, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng rau sạch, may công nghiệp...
Ngoài công tác dạy nghề, huyện còn phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội giải ngân các nguồn vốn vay cho học viên như: vốn vay hộ nghèo, nước sạch vệ sinh môi trường, nguồn vốn vay học sinh sinh viên...
Ông Đỗ Văn Thuần - Chủ tịch Hội Nông dân xã Công Lý (huyện Lý Nhân, Hà Nam) chia sẻ, nhờ làm tốt công tác dạy nghề, chuyển giao khoa học kỹ thuật mà từ năm 2017 tới nay đã có gần 300 lao động ở xã được học nghề. Hầu hết học viên sau học nghề đều làm nghề cũ nhưng cho năng suất và thu nhập cao hơn trước. "Điều dễ nhìn thấy là sau các lớp tập huấn, những học viên được vay vốn đã mạnh dạn áp dụng kiến thức khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao năng suất, tăng thu nhập tại hộ gia đình. Nhiều hộ đã vươn lên làm giàu, xây dựng mô hình điểm trong phát triển kinh tế ở địa phương" - ông Thuần nói thêm.
Theo Danviet
Sawaco và ẩn số thương vụ rao bán đất 'kim cương' ngay hồ Con Rùa tại TP.HCM Công ty Quảng trường Quốc tế (ISC) là một doanh nghiệp đa ngành, hoạt động cả trong những lĩnh vực "lạ" như... bán lẻ hàng hóa trong các cửa hàng chuyên doanh, bán lẻ dầu hỏa, than nhiên liệu dùng cho gia đình, hàng lưu niệm, đan lát, thủ công mỹ nghệ, đồng hồ, kính mắt, cắt tóc, trang điểm cô dâu... nhưng...