Xuất khẩu quả vải tươi: Đề nghị Nhật Bản ủy quyền kiểm dịch thực vật
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sẽ đề nghị Nhật Bản ủy quyền cho cơ quan kiểm dịch thực vật Việt Nam thực hiện kiểm tra hệ thống xử lý khử trùng quả vải tươi xuất khẩu hoặc kiểm tra online.
Thu hoạch vải thiều tại hộ nông dân Nguyễn Văn Quân, xã Thanh Hải, huyện Lục Ngạn, Bắc Giang. (Ảnh: TTXVN)
Ông Hoàng Trung, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, với trường hợp Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Nhật Bản không thể cử chuyên gia sang Việt Nam để kiểm tra, công nhận hệ thống xử lý khử trùng quả vải tươi xuất khẩu của Việt Nam, Cục sẽ đề nghị Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Nhật Bản ủy quyền các công việc đó cho cơ quan kiểm dịch thực vật Việt Nam thực hiện hoặc sẽ thực hiện online để truyền thông tin sang Nhật Bản.
Theo ông Hoàng Trung, hiện nay, tất cả các vấn đề kỹ thuật để đưa quả vải sang Nhật Bản đã hoàn tất, từ vấn đề cấp mã số vùng trồng cho đến cấp mã số cho các cơ sở đóng gói, đặc biệt là thiết lập hệ thống xử lý theo yêu cầu của Nhật Bản.
Hiện nay, quả vải đang sinh trưởng và phát triển tốt, tuy nhiên theo Cục Bảo vệ thực vật, vấn đề quan trọng thời điểm này là phòng, chống các loại sâu bệnh gây hại trên quả vải. Đó là bệnh thán thư, mốc sương và quan trọng nhất là sâu đục cuống quả vải đã phát sinh, bắt đầu gây hại.
Cục Bảo vệ thực vật đã cử cán bộ phối hợp cùng địa phương để phòng, chống các loại sâu bệnh và có chương trình giám sát an toàn thực phẩm riêng đối với quả vải.
Năm nay, tỉnh Bắc Giang có trên 28.000ha vải, sản lượng ước đạt trên 160.000ha, tăng 10.000 tấn so với năm 2019, trong đó vải sớm là 6.000ha, sản lượng 45.000 tấn; vải thiều chính vụ trên 22.100ha, sản lượng 115.000 tấn.
Để chuẩn bị cho quả vải thiều tươi đầu tiên cho xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, tỉnh Bắc Giang đã phối hợp với Cục Bảo vệ thực vật chọn lựa và đề nghị phía Nhật Bản chấp thuận 19 mã số vùng trồng với diện tích 103ha, sản lượng ước đạt 600 tấn ở huyện Yên Thế và Lục Ngạn.
Ông Dương Văn Thái, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Giang cho biết, trước diễn biến dịch COVID-19 còn phức tạp, Bắc Giang đã đưa ra 3 kịch bản cho xuất khẩu quả vải.
Kịch bản thuận lợi nhất là xuất khẩu được sang tất cả các thị trường; kịch bản thứ hai là xuất khẩu có khó khăn, nhưng vẫn có thể xuất khẩu được; kịch bản thứ ba trong bối cảnh khó khăn nhất là không xuất khẩu được và khi đó chỉ là thị trường nội địa.
Tỉnh Hải Dương có 9.700ha vải, dự kiến tổng sản lượng quả đạt 45.000 tấn. Tỉnh đã xây dựng 23 vùng trồng vải, nhãn theo tiêu chuẩn quốc tế với tổng diện tích 220ha. Để chuẩn bị cho vụ vải 2020, tỉnh chủ động giám sát chặt chẽ vùng trồng và tổ chức các hoạt động kết nối tiêu thụ vải.
Vùng trồng này đáp ứng tiêu chuẩn của các thị trường Nhật Bản, Mỹ, Australia và các nước EU về kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm.
Để xúc tiến đưa quả vải tươi của Việt Nam lần đầu tiên sang thị trường Nhật Bản trong năm 2020, Bộ Công thương cũng đã có công văn đề nghị Đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản làm việc với Bộ Nông Nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Nhật Bản để thuyết phục phía bạn xem xét các giải pháp khác thay cho việc phải cử chuyên gia sang Việt Nam kiểm tra cơ sở khử trùng./.
Video đang HOT
Tăng trưởng xuất khẩu kỳ vọng vào lực đẩy từ các hiệp định thương mại
Nếu dịch bệnh được khống chế trong quý 2, dự kiến xuất khẩu sẽ tăng trở lại trong nửa cuối năm và tiếp tục là động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2020.
Chế biến cá tra xuất khẩu tại tỉnh An Giang. (Ảnh: TTXVN)
Xuất khẩu hàng hóa dự báo sẽ gặp nhiều khó khăn trong quý 2, khi dịch COVID-19 vẫn còn diễn biến phức tạp. Tuy nhiên, theo các chuyên gia thương mại, Việt Nam vẫn có thể đạt mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu 7-8% như kế hoạch nếu tận dụng được các cơ hội thị trường.
Đặc biệt, các ưu đãi của các hiệp định thương mại tự do như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) được kỳ vọng sẽ có những tác động thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu trong thời gian tới.
Xuất khẩu giảm sút
Nhận định về hoạt động xuất nhập khẩu trong 4 tháng qua, ông Trần Thanh Hải- Phó Vụ trưởng Vụ Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho hay, từ đầu năm đến nay xuất nhập khẩu vẫn còn nhiều khó khăn, không đạt tăng trưởng cao như những năm trước.
Tuy nhiên, kết quả xuất nhập khẩu, nhất là xuất khẩu của Việt Nam vẫn được đánh giá cao hơn nhiều quốc gia khác đang rơi vào cảnh tăng trưởng xuất khẩu âm.
Bên cạnh đó, trong khi xuất khẩu nhiều mặt hàng giảm sút, vẫn có những mặt hàng tăng trưởng như: điện thoại và linh kiện điện tử; máy móc thiết bị phụ tùng; gỗ và sản phẩm từ gỗ; gạo; sữa...
Chẳng hạn như việc cùng với hợp đồng xuất khẩu sữa có giá trị 20 triệu USD với một đối tác tại Gulfood Dubai vào đầu năm nay, sự kiện xuất khẩu chính ngạch lô sữa đặc Ông Thọ sang Trung Quốc thật sự là tín hiệu lạc quan của Vinamilk cũng như đối với ngành sữa Việt Nam nói chung, đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện xuất khẩu đang giảm tốc.
Không những thế, trong bối cảnh nhiều mặt hàng dệt may gặp khó khăn do bị hoãn, giãn đơn hàng, khẩu trang đang là "cứu cánh" của doanh nghiệp dệt may.
400 triệu khẩu trang y tế là số lượng trong đơn hàng Tổng công ty May 10 đã ký với đối tác giao hàng trong tháng 7. Ngoài đơn hàng khẩu trang y tế, May 10 còn nhận được các đơn hàng từ Đức, Mỹ cho khẩu trang vải kháng khuẩn, tổng cộng hơn 20 triệu chiếc.
Theo Bộ Công Thương, nếu trong quý 1, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam chưa bị tác động nhiều bởi đại dịch COVID-19 thì bước sang quý 2, hoạt động này phải đối mặt với nhiều thách thức, nhất là nền kinh tế có độ mở lớn sẽ chịu tác động đan xen nhiều mặt bởi tình hình kinh tế quốc tế trước diễn biến của dịch ngày càng phức tạp, khó lường.
Hơn nữa, dịch bệnh tại nhiều thị trường khu vực châu Âu, Hoa Kỳ, ASEAN, Trung Đông chưa được kiểm soát, việc các nước áp dụng các biện pháp hạn chế đi lại tiếp tục gây ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Công nhân Công ty Cổ phần May Chiến Thắng sản xuất khẩu trang vải dệt kim kháng khuẩn. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN)
Thống kê cho thấy, kim ngạch xuất khẩu trong tháng 4 đạt 19,7 tỷ USD, giảm mạnh 18,4% so với tháng 3/2020 và giảm 3,5% so với cùng kỳ năm 2019.
Đáng lưu ý, kim ngạch xuất khẩu hầu hết các nhóm hàng đều sụt giảm so với tháng 3; trong đó, nhóm hàng công nghiệp chế biến giảm tới 20% so với tháng trước và đạt 16,4 tỷ USD.
Ngoài ra, kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản cũng giảm 18,6% so với tháng 3 đạt 247 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, thủy sản giảm 6,6% so với tháng 3 đạt 2,02 tỷ USD.
Tính chung 4 tháng, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 82,94 tỷ USD, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm 2019 (cùng kỳ tăng 6,5%).
Về nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu tháng 4 cả nước đạt 20,4 tỷ USD, giảm 7,9% so với tháng trước và giảm 2,3% so với cùng kỳ năm 2019. Tính chung 4 tháng, kim ngạch nhập khẩu cả nước đạt 79,89 tỷ USD, tăng 2,1% so với cùng kỳ.
Dựa vào hoạt động xuất nhập khẩu có thể thấy tháng 4 Việt Nam đã nhập siêu 700 triệu USD.
Tuy nhiên, tính chung 4 tháng, cán cân thương mại lại tiếp tục xuất siêu 3,04 tỷ USD cao hơn nhiều so với con số thặng dư đạt 983 triệu USD của 4 tháng đầu năm 2019; trong đó, khối doanh nghiệp FDI xuất siêu 10,17 tỷ USD, khối doanh nghiệp trong nước lại nhập siêu 7,13 tỷ USD.
Theo các chuyên gia thương mại, sau khi đạt mức tăng trưởng khá tích cực trong quý 1, hoạt động thương mại của Việt Nam trong tháng 4 đã bắt đầu chịu tác động mạnh mẽ từ đại dịch COVID-19.
Mặc dù vậy, nếu dịch bệnh được khống chế trong quý 2/2020, dự kiến xuất khẩu sẽ tăng trở lại trong nửa cuối năm và tiếp tục là động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2020 nhờ nhu cầu tiêu thụ trên thế giới tăng trở lại cộng với những lợi thế cạnh tranh khi Hiệp định EVFTA chính thức có hiệu lực.
Chờ đợi cơ hội
Các chuyên gia thương mại cho rằng, Hiệp định EVFTA dự kiến có hiệu lực trong nửa cuối năm 2020 được kỳ vọng mở ra một cơ hội để thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU trong những tháng cuối năm nay và những năm tới.
Theo cam kết của Hiệp định EVFTA, có đến 70% mặt hàng được giảm thuế và EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,7% số dòng thuế. Đây là lợi thế lớn dành cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Ngoài ra, nhiều nền kinh tế đã tung các gói kích cầu quy mô lớn trước tác động tiêu cực của dịch COVID-19 lên nền kinh tế bởi đa phần các nước đều tăng cường chi tiêu tài khoá để đối phó với dịch bệnh, duy trì các hoạt động kinh tế thiết yếu và hỗ trợ người lao động.
Đặc biệt, tại Việt Nam, Chính phủ và các bộ, ban ngành cũng đã và đang nỗ lực triển khai nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp do tác động của dịch COVID-19.
Hiện nay, tình hình kiểm soát và khống chế dịch bệnh ở Trung Quốc, Hàn Quốc có kết quả tích cực; các nước khác cũng đang nỗ lực kiểm soát dịch bệnh... do đó, nhu cầu được dự báo sẽ dần tăng trở lại trong thời gian tới.
Hơn nữa, mới đây Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã thông báo kết quả chính thức của đợt rà soát thuế chống bán phá giá lần thứ 15 (POR15) cho giai đoạn từ ngày 1/8/2017 đến 31/7/2018 đối với sản phẩm cá tra, cá basa xuất khẩu của Việt Nam.
Theo đó, mức thuế cuối cùng áp cho các doanh nghiệp đã tham gia trả lời bản câu hỏi và hợp tác với Bộ Thương mại Hoa Kỳ là 0,15 USD/kg (tương ứng khoảng 3,8% giá xuất khẩu), giảm đáng kể so với đợt trước (POR14) là 1,37 USD/kg.
Các doanh nghiệp không hợp tác sẽ nhận mức thuế 2,39 USD/kg, giữ nguyên so với POR14. Ngoài ra, hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra lớn của Việt Nam vẫn tiếp tục được hưởng mức thuế 0%.
Mức thuế chống bán phá giá cho cá tra sang thị trường Hoa Kỳ giảm mạnh. Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang một số thị trường cũng có dấu hiệu tăng trưởng khả quan.
Đây là thông tin tích cực đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra-basa của Việt Nam trong bối cảnh tình hình dịch bệnh dự kiến sẽ tác động đến ngành nuôi cá trong nước.
Các xe container chở hàng nông sản chờ làm thủ tục xuất cảnh tại cửa khẩu quốc tế đường bộ số II Kim Thành. (Ảnh: Quốc Khánh/TTXVN)
Để tháo gỡ khó khăn về thị trường xuất nhập khẩu, Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng khẳng định, Bộ Công Thương đã hướng dẫn các địa phương, Hiệp hội ngành hàng, tổ chức xúc tiến thương mại áp dụng ngay các phương thức xúc tiến thương mại thông qua nền tảng số, trên môi trường thương mại điện tử, khai thác các ứng dụng công nghệ thông tin như phần mềm ứng dụng trên máy tính và điện thoại di động... trong hoạt động xúc tiến thương mại.
Trước mắt, ưu tiên triển khai các hoạt động kết nối giao thương trực tuyến giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các đối tác có nhu cầu nhập khẩu; tuyên truyền quảng bá doanh nghiệp và sản phẩm, thương hiệu sản phẩm của Việt Nam đến người tiêu dùng trong nước và thế giới.
Riêng với thị trường Trung Quốc, Bộ Công Thương đã trao đổi và làm việc nhằm sớm đẩy nhanh năng lực thông quan hàng hóa qua các cửa khẩu; đảm bảo vận tải giao thương ở biên giới; điều tiết lượng hàng hóa lên cửa khẩu, tránh để ùn tắc nhiều làm tăng chi phí.
Đặc biệt, Bộ còn thiết lập cơ chế liên kết bảo đảm trao đổi thông tin thông suốt với các Tham tán thương mại, các Vụ thị trường nước ngoài, các Hiệp hội ngành hàng, Trung tâm Xúc tiến thương mại địa phương và các doanh nghiệp trên cả nước trên các ứng dụng internet như đầu mối tiếp nhận, phản hồi các nhu cầu xuất nhập khẩu của doanh nghiệp Việt Nam và các nước thông qua địa chỉ email, nhóm tương tác trên các ứng dụng Viber, Zalo.
Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng xây dựng và hoàn thiện hệ thống phần mềm quản lý quan hệ khách hàng tích hợp cơ sở dữ liệu doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam theo nhóm ngành hàng, khu vực địa lý, quy mô, loại hình doanh nghiệp, năng lực sản xuất xuất khẩu, nhu cầu xuất nhập khẩu và chia sẻ quyền truy cập hệ thống cho hệ thống các Thương vụ, Trung tâm Xúc tiến thương mại Việt Nam tại nước ngoài để cùng khai thác, sử dụng để tăng cường khả năng kết nối cơ hội kinh doanh, đầu tư thúc đẩy xuất khẩu./.
Tháng 4/2020: Sản lượng thép xây dựng Hòa Phát tiếp tục tăng Theo Công ty CP Tập đoàn Hòa Phát,tháng 4/2020, sản lượng thép xây dựng của Hòa Phát đạt 270.000 tấn, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2019. Sản lượng thép xây dựng của Hòa Phát đạt 270.000 tấn trong tháng 4/2020, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, sản lượng xuất khẩu tăng 17% so với tháng 4/2019 với...