Xét nghiệm máu tiết lộ số ca Covid-19 ở Mỹ gấp đôi công bố
Theo ước tính từ xét nghiệm máu, hơn 140 triệu người Mỹ đã nhiễm virus SARS-CoV-2 trong khi con số công bố chính thức là 79 triệu.
Các ước tính của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC) cho thấy khoảng 43% dân số nước này đã nhiễm virus SARS-CoV-2.
Dữ liệu khảo sát vào cuối tháng 1, khi biến thể Omicron gây ra hơn 500.000 ca mỗi ngày.
Đến cuối tháng 11, ngay trước khi Omicron bắt đầu lây lan ở Mỹ, các xét nghiệm máu nhận định, 103 triệu người đã nhiễm Covid-19.
Như vậy, thêm khoảng 37 triệu người đã nhiễm virus trong hơn 2 tháng.
Ước tính số ca nhiễm Covid-19 ở Mỹ theo xét nghiệm máu
Cứ hai tuần, CDC thu thập xét nghiệm máu từ các phòng thí nghiệm trên toàn quốc vì những lý do không liên quan đến Covid-19 như kiểm tra sức khỏe hoặc điều trị y tế. Những mẫu này cũng được kiểm tra để tìm kháng thể virus SARS-CoV-2.
Phân tích chỉ tính kháng thể sinh ra do nhiễm bệnh, gồm cả các trường hợp không có triệu chứng.
Nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ nhiễm Covid-19 cao người dưới 18 tuổi (58%). Dưới 50% số người từ 18 đến 49 tuổi đã nhiễm bệnh. Tỷ lệ này giảm xuống còn 37% đối với những người từ 50 đến 64 tuổi và 23% ở những người từ 65 tuổi trở lên.
Tuy nhiên, Covid-19 khiến người cao tuổi tử vong nhiều hơn. Một nửa số ca chết do virus SARS-CoV-2 từ 75 tuổi trở lên. Tiêm chủng và các biện pháp phòng ngừa khác được tập trung vào những người cao tuổi có nguy cơ cao.
Ban đầu, các xét nghiệm tính tới cả khả năng bảo vệ có từ nhiễm bệnh và tiêm vắc xin để xem Mỹ đã đạt đến mức độ miễn dịch cộng đồng hay không. CDC nhận thấy, kháng thể mạnh nhất trong khoảng 6 tháng, sau đó nguy cơ nhiễm bệnh sẽ tăng trở lại. Các biến thể Delta và Omicron đều có khả năng gây tái nhiễm.
Kristen Nordlund, phát ngôn viên của CDC, cho biết, trước khi Omicron xuất hiện, một nghiên cứu đã tìm thấy kháng thể ở hơn 90% người trưởng thành (có từ vắc xin và từng nhiễm bệnh). Nhưng điều đó không ngăn được tỷ lệ nhiễm bệnh lớn do Omicron lan tràn.
Theo Nordlund, việc tiêm phòng hoặc tiếp xúc với virus có thể làm giảm mức độ nghiêm trọng và tử vong.
Video đang HOT
Các nhà khoa học vẫn chưa thể giải thích lý do một số người nhiễm virus và những người khác thì không. Một nghiên cứu của CDC về dịch bệnh lây lan ở các gia đình trong làn sóng Omicron cho thấy, 53% số người trong một hộ có F0 cũng nhiễm virus.
Việc tiêm phòng, đeo khẩu trang và cách ly giảm sự lây truyền và bảo vệ các thành viên khác. Nhưng ngay cả ở những hộ không có sự cách ly, tiêm phòng, đeo khẩu trang thì không phải ai cũng mắc bệnh.
13 nguyên nhân có thể gây vô kinh - Khi nào cần điều trị?
Vô kinh là tình trạng không có máu kinh xảy ra. Phụ nữ thường không thấy kinh vào độ tuổi dậy thì, trong thai kỳ, cho con bú và sau mãn kinh. Nếu không thấy kinh vào những thời điểm khác đó có thể là triệu chứng bệnh lý cần điều trị.
Đôi khi một phụ nữ sẽ không có kinh nguyệt trong hơn ba chu kỳ mặc dù đã có kinh nguyệt đều đặn trước đó.
Nếu không có nguyên nhân tự nhiên nào, chẳng hạn như mang thai thì gọi là vô kinh thứ phát. Vô kinh thứ phát xảy ra với khoảng 3-5% ở phụ nữ trưởng thành.
1. Nguyên nhân của vô kinh
1.1 Các loại vô kinh
Có 2 loại vô kinh là vô kinh nguyên phát và vô kinh thứ phát.
Vô kinh nguyên phát là khi một cô gái tuổi dậy thì đã đến hoặc bước qua tuổi 16 mà vẫn chưa có kinh lần đầu tiên. Trẻ em gái bắt đầu có kinh nguyệt từ khoảng 9 đến 18 tuổi, nhưng 12 là độ tuổi trung bình.
Vô kinh thứ phát là khi phụ nữ ngừng kinh ít nhất ba tháng. Đây là dạng vô kinh phổ biến hơn.
Các nguyên nhân tự nhiên của vô kinh bao gồm mang thai, cho con bú và mãn kinh. Khi một phụ nữ bị chảy máu kinh nguyệt đều đặn, điều này có nghĩa là buồng trứng, tử cung, vùng dưới đồi và tuyến yên đang hoạt động tốt.
Việc không có kinh có thể cho thấy một trong những bộ phận này của cơ thể có vấn đề, hoặc có thể có bất thường ở đường sinh dục. Các yếu tố về lối sống, tình trạng sức khỏe cơ bản và một số loại thuốc cũng có thể gây ra vô kinh.
1.2 Các nguyên nhân có thể gây ra hiện tượng vô kinh
- Kiểm soát sinh sản: Một số loại thuốc tránh thai có thể gây chậm kinh hoặc hoàn toàn không có kinh.Một số phương pháp ngừa thai khác, chẳng hạn như dụng cụ tử cung nội tiết tố (IUD), cấy ghép và tiêm thuốc cũng có thể dẫn đến vô kinh. Việc dừng thuốc tránh thai đột ngột cũng có thể dẫn đến mất kinh vài tháng trước khi chu kỳ trở lại bình thường.
Dùng thuốc tránh thai hoặc dừng thuốc tránh thai đột ngột cũng có thể là nguyên nhân gây vô kinh.
- Thiếu hụt dinh dưỡng: Suy dinh dưỡng có thể ảnh hưởng đến chức năng của tuyến dưới đồi và tuyến yên, có thể dẫn đến vô kinh.
- Trọng lượng cơ thể thấp: Trọng lượng cơ thể thấp cũng có thể ngăn cản vùng dưới đồi và tuyến yên hoạt động bình thường. Điều này có thể dẫn đến một loại vô kinh được gọi là vô kinh chức năng vùng dưới đồi.
- Căng thẳng: Căng thẳng có thể ảnh hưởng đến nồng độ hormone trong cơ thể, và nó là một nguyên nhân khác gây ra tình trạng vô kinh chức năng vùng dưới đồi. Những người bị loại vô kinh này cũng có tỷ lệ cao hơn.
- Tập thể dục quá sức: Tập thể dục quá sức là nguyên nhân thứ ba gây ra tình trạng vô kinh chức năng vùng dưới đồi. Một số nghiên cứu Nguồn tin cậy ước tính rằng một nửa số phụ nữ tập thể dục quá sức bị rối loạn kinh nguyệt nhẹ.
- Rối loạn ăn uống: Mắc chứng rối loạn ăn uống, chẳng hạn như chán ăn hoặc ăn vô độ, có thể khiến kinh nguyệt của một người ngừng lại. Có quá ít chất béo trong cơ thể hoặc quá nhiều chất béo trong cơ thể cũng có thể làm chậm hoặc ngừng kinh nguyệt.
- Tăng cân quá mức: Tăng cân nhanh chóng có thể làm mất cân bằng nội tiết tố, từ đó dẫn đến tình trạng vô kinh tạm thời.
- Thuốc chữa bệnh tâm thần: Một số thuốc chống trầm cảm và ổn định tâm trạng có thể ảnh hưởng đến cách hoạt động của vùng dưới đồi và tuyến yên. Nếu thuốc không đúng mức nội tiết tố, kinh nguyệt phụ nữ có thể ngừng lại.
- Hội chứng buồng trứng đa nang: Là một rối loạn nội tiết tố ảnh hưởng đến 6-8% của phụ nữ trên toàn thế giới.Hội chứng buồng trứng đa nang gây ra một loạt các triệu chứng bao gồm kinh nguyệt không đều , khó mang thai , tăng cân , nổi nhiều mụn .
Hội chứng buồng trứng đa nang cũng có thể dẫn đến chứng hyperandromia, đó là khi phụ nữ có mức độ hormone nam giới cao và có thể ảnh hưởng đến chu kỳ kinh nguyệt, dẫn đến vô kinh.
- Suy buồng trứng sớm: Là khi buồng trứng ngừng hoạt động bình thường trước 40 tuổi.Tình trạng này có thể dẫn đến chậm kinh. Tuy nhiên, nó không giống như mãn kinh sớm, đó là khi kinh nguyệt ngừng hoàn toàn.
Suy buồng trứng sớm cũng có thể là một trong những nguyên nhân gây vô kinh.
- Hội chứng Turner: Là một rối loạn di truyền. Những phụ nữ bị tình trạng này có thể có buồng trứng kém phát triển và không có kinh nguyệt.
- Dị tật đường sinh dục: Là những vấn đề về cấu trúc có thể gây ra hiện tượng không có kinh hoặc máu kinh khó thoát ra ngoài âm đạo. Dị tật đường sinh dục nữ phổ biến nhấtTrusted Source là một màng trinh không hoàn hảo, là một màng trinh không có lỗ mở, đóng lại khỏi âm đạo và không cho máu kinh ra ngoài trong kỳ kinh nguyệt.
- Các vấn đề về tuyến yên: Tuyến yên tiết ra các hormone kiểm soát chu kỳ kinh nguyệt. Các vấn đề với tuyến yên có thể dẫn đến vô kinh:một khối u tuyến yên , hoại tử sau sinh (là sự chết sớm của các tế bào trong tuyến yên sau khi mang thai) , tình trạng viêmsarcoidosis (u hạt).
2. Khi nào cần đi gặp bác sĩ?
Khi thấy dấu hiệu vô kinh, phụ nữ cần đi khám ngay lập tức để xác định sớm nguyên nhân vô kinh.
Một cô gái vị thành niên cần đi khám nếu cô ấy từ 14 tuổi trở lên và chưa có bất kỳ dấu hiệu dậy thì nào. Những thay đổi này sẽ bao gồm những điều sau đây theo thứ tự xuất hiện được đánh số: phát triển chồi vú, phát triển lông mu, bắt đầu chu kỳ kinh nguyệt.
Phụ nữ và các em gái tuổi dậy thì đang trong thời kỳ kinh nguyệt nên đến gặp bác sĩ nếu họ bị chậm kinh từ ba kỳ kinh trở lên liên tiếp.
Bác sĩ có thể đề nghị làm các xét nghiệm để xác định nguyên nhân cơ bản khiến phụ nữ bị chậm kinh. Các xét nghiệm chẩn đoán này có thể bao gồm:
Xét nghiệm máu, cho phép bác sĩ kiểm tra nồng độ hormone trong cơ thể bạn. Prolactin, hormone hoàng thể và hormone kích thích nang trứng đều liên quan đến kinh nguyệt. Việc xác định các mức độ này có thể giúp bác sĩ xác định hoặc loại trừ nguyên nhân vô kinh.
Siêu âm là một xét nghiệm hình ảnh sử dụng sóng âm tần số cao để tạo ra hình ảnh chi tiết bên trong cơ thể. Nó cho phép bác sĩ của bạn xem các cơ quan khác nhau, chẳng hạn như buồng trứng và tử cung, và kiểm tra sự phát triển bất thường.
Chụp CT là một loại xét nghiệm hình ảnh khác sử dụng máy tính và máy X-quang quay để tạo ra hình ảnh cắt ngang của cơ thể. Những hình ảnh này hỗ trợ bác sĩ tìm kiếm các khối và khối u trong các tuyến và cơ quan của bạn.
3. Điều trị vô kinh
Điều trị vô kinh khác nhau tùy thuộc vào nguyên nhân cơ bản. Sự mất cân bằng nội tiết tố có thể được điều trị bằng các loại hormone bổ sung hoặc tổng hợp, có thể giúp bình thường hóa mức độ hormone. Khi bị vô kinh, phụ nữ nên đi khám để xác định nguyên nhân gây ra tình trạng vô kinh. Cần tuân thủ kế hoạch điều trị và tham gia tất cả các cuộc hẹn tái khám.
Bác sĩ cũng có thể loại bỏ u nang buồng trứng, mô sẹo hoặc tổn thương tử cung nếu đây là nguyên nhân khiến phụ nữ chậm kinh.
Bạn nên thay đổi lối sống đơn giản nếu cân nặng hoặc thói quen tập thể dục góp phần vào tình trạng của bạn. Bác sĩ có thể sẽ giới thiệu phụ nữ đến bác sĩ dinh dưỡng hoặc chuyên gia dinh dưỡng để hướng cách quản lý cân nặng và hoạt động thể chất một cách lành mạnh.
Liên hệ với bác sĩ ngay nếu tình trạng của bạn không cải thiện với các phương pháp điều trị y tế hoặc thay đổi lối sống.
Bé 3 tuổi bị đóng đinh vào đầu vẫn nguy kịch, có thể được truyền máu từ bố Người nhà cháu bé thông tin, ngày 23/1, các bác sĩ đã cho bố cháu bé đi xét nghiệm máu để trong trường hợp cần thiết có thể truyền máu cho bé. Liên quan đến tình trạng sức khỏe bé Đ.N.A. (bé 3 tuổi bị đóng đinh vào đầu), trao đổi với Dân trí sáng 24/1, BS Trần Liên Hương, Phó Giám đốc...