Xây dựng thương hiệu lúa gạo Việt Nam – Bài cuối: Phát triển chuỗi giá trị lúa gạo
Gạo Việt Nam đang có nhiều cơ hội nâng cao vị thế trên thị trường thế giới cả về sản lượng xuất khẩu lẫn giá trị kinh tế. Nhưng để có thể tận dụng được cơ hội đó, khẳng định thương hiệu riêng cho hạt gạo Việt Nam và mang lại lợi ích tương xứng cho người trồng lúa đòi hỏi phải tổ chức chuỗi giá trị lúa gạo một cách khoa học, đáp ứng đúng nhu cầu thị trường.
Cơ hội nâng cao vị thế
Đóng gói sản phẩm gạo xuất khẩu tại nhà máy của Công ty Cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An, quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ. Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU ( EVFTA) có hiệu lực từ ngày 1/8/2020 đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho gạo Việt, nhất là với sản phẩm gạo thơm tăng giá trị, vừa khẳng định thương hiệu hạt gạo Việt trên trường quốc tế. Chỉ một thời gian ngắn sau khi Hiệp định EVFTA đi vào thực thi, một số doanh nghiệp Việt Nam đã đàm phán được đơn hàng xuất khẩu gạo thơm với giá trên 1.000 USD/tấn.
Cụ thể, đầu tháng 9/2020, Công ty cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An đã ký hợp đồng bán gạo với 3 khách hàng của EU với tổng khối lượng lên đến 3 nghìn tấn. Lô hàng đầu tiên khoảng 150 tấn gạo với 2 loại gạo thơm là ST20 và Jasmine sẽ được giao trong tháng 9; trong đó, gạo ST20 được bán với giá trên 1.000 USD/tấn và gạo Jasmine có giá trên 600 USD/tấn.
Ông Phạm Thái Bình, Tổng Công ty cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An thông tin, trước đây gạo Việt Nam xuất khẩu vào EU chịu thuế suất rất cao nên khó cạnh tranh được với gạo từ các quốc gia khác, đặc biệt là gạo Thái Lan. Hiệp định EVFTA có hiệu lực giúp các loại gạo thơm, chất lượng cao Việt Nam được giảm thuế về 0% (trong hạn ngạch 80.000 tấn/năm), gia tăng năng lực cạnh tranh.
Đáng nói là để được hưởng ưu đãi từ EU, các sản phẩm gạo Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này đều phải đạt chứng nhận chất lượng và có thương hiệu riêng. Điều này sẽ tạo hiệu ứng lan tỏa cho thương hiệu gạo Việt Nam không chỉ tại EU mà cả thị trường thế giới.
Hay Tâp đoan Lộc Trời cũng vừa ký kết hợp đồng xuất 126 tấn gạo thơm giống Jasmine 85 được đóng gói theo quy cách 18 kg sang thị trường EU, theo diện ưu đãi thuế suất 0% của Hiệp định EVFTA.
Đại diện Tập đoàn Lộc Trời thông tin, xu hướng sử dụng gạo ở EU đang tăng lên đáng kể do sự phổ biến của thức ăn châu Á tại thị trường này. Ước tính, mỗi năm thị trường EU tiêu thụ khoảng 2,5 triệu tấn gạo, đây là cơ sở cho việc mở rộng hạn ngạch xuất khẩu gạo vào thị trường EU trong thời gian tới.
Tập đoàn Lộc Trời đặt mục tiêu trở thành một trong những nhà xuất khẩu gạo lớn nhất vào EU trong thời gian tới bằng việc tập trung nhiều nguồn lưc vào việc đáp ứng yêu cầu chất lượng ngày càng cao của EU. Cùng đó, tăng diện tích vùng trồng lúa chất lượng cao để tăng sản lượng xuất khẩu; đa dạng hóa các loại giống, xây dựng thương hiệu một số giống lúa đã được chứng nhận của Việt Nam tại thị trường EU.
Video đang HOT
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tính đến cuối tháng 9/2020, xuất khẩu gạo ước đạt 5,012 triệu tấn, kim ngạch đạt 2,46 tỷ USD; giảm 0,96% về lượng nhưng tăng 11,41% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2019.
Nếu duy trì tốc độ xuất khẩu như các tháng vừa qua, xuất khẩu gạo cả năm 2020 có khả năng đạt từ 6,8 – 7 triệu tấn, tăng từ 5 -10% về lượng so với năm 2019 (6,37 triệu tấn). Mặt khác, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam hiện nay cũng đang ở mức cao nhất so với nhiều năm qua nên kim ngạch xuất khẩu gạo cả năm dự báo sẽ cao hơn năm 2019.
Xây dựng thương hiệu từ chất lượng
Gạo Việt Nam đang có nhiều cơ hội nâng cao vị thế trên thị trường thế giới cả về sản lượng xuất khẩu lẫn giá trị kinh tế. Ảnh: Đình Huệ/TTXVN
Đón đầu các cơ hội xuất khẩu gạo chất lượng cao sau khi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, thời gian gần đây nhiều địa phương ở Đồng bằng sông Cửu Long đã hạn chế trồng lúa phẩm chất thấp, dần chuyển sang sử dụng giống lúa thơm, lúa chất lượng cao phục vụ cho xuất khẩu và nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Tại Cần Thơ, bên cạnh các giống lúa thơm Jasmine 85, Đài Thơm 8, VD 20, những năm gần đây, người dân còn sản xuất các giống thơm khác như KDM, lúa Nhật, Hương Châu 6, Nàng Hoa 9,
Vụ lúa Đông Xuân 2019-2020, Cần Thơ xuống giống được 79.244 ha lúa; trong đó, các loại lúa thơm gồm Jasmine 85, Đài Thơm 8 và RVT chiếm tỷ lệ khoảng 75% diện tích xuống giống, lúa chất lượng cao OM 5451 chiếm 8%. Còn nhóm giống lúa có chất lượng gạo trung bình, phẩm cấp thấp (IR50404) chỉ chiếm 10% diện tích.
Tương tự, tỉnh Sóc Trăng cũng đang bước đầu triển khai thực hiện đề án “lúa thơm – tôm sạch” gắn với phát triển thương hiệu giống lúa ST. Đề án thực hiện từ năm 2020 đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 với mục tiêu phát triển diện tích trồng lúa ST lên 17.000 ha. Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Sóc Trăng, để triển khai tốt đề án này, tỉnh sẽ phối hợp các viện nghiên cứu thực hiện, mời gọi doanh nghiệp tham gia, liên kết sản xuất theo chuỗi sản xuất – tiêu thụ khép kín.
Sản xuất lúa gạo chất lượng cao hướng tới mục tiêu xuất khẩu là hướng đi phù hợp với nhu cầu thị trường. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cho rằng để xây dựng được thương hiệu cho hạt gạo Việt Nam thì chỉ chuyển đổi giống theo phong trào là chưa đủ mà cần có quy hoạch cụ thể cho từng chủng loại gạo. Bên cạnh đó, phải nâng cao hiệu quả các mô hình liên kết.
Ông Phạm Thái Bình cho rằng, Nhà nước, ngành nông nghiệp liên tục kêu gọi liên kết sản xuất lớn nhưng vấn đề là cần có cơ chế, chính sách cụ thể để hỗ trợ nguồn vốn cho doanh nghiệp tham gia vào chuỗi. Việc doanh nghiệp hay nông dân bẻ kèo trong các hợp đồng liên kết sản xuất tiêu thụ hiện nay đều do thiếu nguồn vốn. Lúa gạo thu hoạch theo mùa vụ với số lượng lớn nghĩa là doanh nghiệp cần có số tiền mặt lớn để thu mua dự trữ. Về phía nông dân khi bán lúa cho doanh nghiệp cũng muốn được thanh toán ngay để xoay vòng tái sản xuất cho vụ sau.”
Vì vậy, để phát triển chuỗi lúa gạo, chỉ liên kết doanh nghiệp – nông dân là chưa đủ mà nhất định phải có sự vào cuộc của ngân hàng. Hiện nay, ngân hàng chỉ mới cho các doanh nghiệp lúa gạo vay ngắn hạn để xuất khẩu gạo còn cho vay để thực hiện mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi nhằm phát triển ngành hàng lúa gạo một cách bền vững thì hầu như chưa có ngân hàng nào làm.
Ông Lâm Định Quốc, nguyên Giám đốc Công ty Lương thực Sóc Trăng cho rằng, không chỉ ở thị trường xuất khẩu mà cả ngay cả người Việt Nam cũng ngày càng ưa chuộng các loại gạo thơm, chất lượng cao. Tín hiệu tích cực là những năm gần đây Việt Nam đã sản xuất được các giống lúa chất lượng cao, được thế giới công nhận. Nhưng để phát huy giá trị các giống lúa đó thành thương hiệu cho ngành gạo Việt Nam cần có cơ chế liên kết sản xuất hiệu quả hơn.
Theo ông Lâm Định Quốc, quan niệm mỗi người dân trong vùng trồng lúa đều phải sản xuất lúa mới đảm bảo kinh tế gia đình không còn phù hợp. Thực tế ở Đồng bằng sông Cửu Long những năm gần đây là thanh niên đã di cư lên các vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ làm công nhân rất nhiều vì sản xuất lúa diện tích nhỏ rất khó để tăng thu nhập, tích lũy tài sản. Do đó, Nhà nước cần có phương án chuyển đổi ngành nghề cho một bộ phận nông dân, đồng thời tạo cơ chế để doanh nghiệp tích tụ ruộng đất phục vụ sản xuất nông nghiệp quy mô lớn.
Ngược lại, nông dân sản xuất lúa gạo xuất khẩu cũng phải hình thành tư duy sản xuất hàng hóa theo nhu cầu thị trường. Nghĩa là, việc tổ chức sản xuất phải hội tụ đủ chất lượng giống tốt, ứng dụng cơ giới hóa đồng bộ và các kỹ thuật canh tác đạt chứng nhận quốc tế. Chất lượng lúa gạo được duy trì ổn định là nền tảng cơ bản để xây dựng thương hiệu riêng cho từng loại gạo Việt Nam. Khi đã có thương hiệu, giá trị hạt gạo bán ra thị trường tăng lên thì lợi nhuận của người trồng lúa cũng sẽ được nâng lên tương xứng.
Tận dụng tối đa các cơ hội từ những hiệp định thương mai tự do
Các hiệp định thương mại tự do (FTA) khi có hiệu lực sẽ mang lại nhiều cơ hội lớn cho tăng trưởng xuất khẩu của doanh nghiệp (DN) Việt Nam.
Mới chỉ tận dụng một vài FTA hiệu quả
Hiện nay, Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết 16 Hiệp định thương mại (FTA), trong đó có 13 FTA đã có hiệu lực và 3 FTA đang đàm phán. Đặc biệt, có FTA thế hệ mới với tiêu chuẩn và chất lượng rất cao là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA).
Các doanh nghiệp cần tận dụng các cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, tổng kim ngạch xuất khẩu tận dụng ưu đãi thuế quan theo FTA năm 2019 đạt 48 tỉ USD, chiếm 37% tổng kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường ký FTA. Hiện chỉ một số ít FTA được tận dụng hiệu quả như FTA Việt Nam - Chilê đạt 68 %, tiếp theo là Ấn Độ và Hàn Quốc với tỉ lệ tận dụng lần lượt là 65% và 50%. Một số thị trường nhập khẩu lớn đã có FTA với Việt Nam như: Nhật Bản, Australia, New Zealand... ít tận dụng ưu đãi thuế từ CPTPP do quy tắc xuất xứ CPTPP chặt hơn và mức cắt giảm thuế quan theo cam kết trong CPTPP không bằng các FTA đã có.
Đối với TP Hồ Chí Minh, mặc dù Việt Nam có 13/16 FTA có hiệu lực nhưng nhiều DN TP Hồ Chí Minh vẫn chưa tận dụng được lợi thế, cơ hội từ các FTA. Một số DN đã xuất khẩu được một số ngành hàng tăng nhưng giá trị gia tăng đem lại không cao, chủ yếu vẫn là cung ứng nguyên liệu thô và hàng gia công. Ngoài ra, các DN trong nước còn chịu sức ép cạnh tranh từ các DN có vốn đầu tư nước ngoài khi tỷ trọng xuất khẩu của khu vực này ngày càng tăng cao.
Ông Phạm Bình An, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển TP Hồ Chí Minh cho biết, xét riêng các đối tác có FTA với Việt Nam (kể cả song phương và khu vực), vẫn có một số FTA chưa được khai thác tốt. Điển hình như với khu vực ASEAN, sau khi thực hiện Cộng đồng Kinh tế ASEAN năm 2015, mức nhập siêu của TP Hồ Chí Minh từ ASEAN có xu hướng tăng. Theo báo cáo, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của TP Hồ Chí Minh qua các thị trường đều tăng qua các năm trong giai đoạn 2015-2019, chiếm tỷ trọng hơn 55% trong tổng kim ngạch xuất khẩu và hơn 60% tổng kim ngạch nhập khẩu của TP Hồ Chí Minh. Trong giai đoạn 2015-2019, cán cân xuất nhập khẩu của TP Hồ Chí Minh với các nước có FTA với Việt Nam cũng là nhập siêu, nhưng có xu hướng giảm dần.
Tương tự với Hàn Quốc, Việt Nam ký kết và tham gia 2 FTA với Hàn Quốc là AKFTA (có hiệu lực từ 6/2007) và VKFTA (có hiệu lực từ 20/12/2015). Từ năm 2007, TP Hồ Chí Minh vẫn nhập siêu từ thị trường Hàn Quốc. Đặc biệt từ năm 2016, sau khi VKFTA có hiệu lực, mức nhập siêu tăng mạnh và tiếp tục tăng qua các năm. Cụ thể, mức nhập siêu năm 2019 gấp 1,89 lần năm 2015.
"Điều này phản ánh các doanh nghiệp Hàn Quốc tận dụng ưu đãi từ VKFTA tốt hơn doanh nghiệp TP Hồ Chí Minh. Đây là điều mà DN TP Hồ Chí Minh cần rút kinh nghiệm và học hỏi nhiều hơn để tận dụng tối đa các FTA nhằm đưa hàng hóa xuất khẩu đi ra các nước tốt hơn", ông Phạm Bình An nói.
Cần quan tâm đến xuất xứ hàng hóa
Theo các chuyên gia kinh tế, sở dĩ các DN Việt Nam chưa tận dụng được nhiều cơ hội từ FTA là do việc xét xuất xứ hàng hóa quá chặt chẽ, trong khi các DN Việt Nam lại hạn chế, thậm chí lơ là việc đáp ứng yêu cầu xuất xứ hàng hóa cho sản phẩm mình làm ra thông qua việc cấp các C/O (giấy chứng nhận xuất xứ nguồn gốc hàng hóa). Vừa qua, tỷ lệ tận dụng các loại C/O ưu đãi theo FTA tăng dần ở các nước phát triển nhưng vẫn còn hạn chế nước đang phát triển như Việt Nam.
Theo ông Phạm Bình An, bản thân doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa quan tâm thực sự đến việc chứng nhận xuất xứ hàng hóa nên chưa tận dụng được lợi thế từ các FTA. Nội dung các FTA thông thường liên quan nhiều đến hoạt động tiếp cận thị trường xuất nhập khẩu, các tiêu chuẩn hoạt động kinh doanh, thể chế... nên chỉ thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp lớn hoặc có nhu cầu xuất khẩu. Trong khi, việc thực thi FTA chưa gắn liền với lợi ích và hoạt động hàng ngày của đa số doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trừ một số hội, hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng mạnh như: VASEP, HAWA... Chính vì vậy, nhiều hội, hiệp hội ở địa phương còn hạn chế về năng lực, chưa có nhiều hoạt động hỗ trợ được các doanh nghiệp tiếp cận thông tin hội nhập chuyên ngành liên quan đến các chứng nhận xuất xứ hàng cho DN Việt Nam.
Các doanh nghiệp sản xuất khẩu trang Việt Nam đã đáp ứng nhiều tiêu chuẩn kỹ thuật, xuất xứ hàng hóa để mang hàng xuất khẩu đi các nước châu Âu, Mỹ, Hàn Quốc...
"Tuy nhiên, không chỉ trông chờ vào các ban ngành, hiệp hội, chính DN cần chủ động trong việc nắm bắt thông tin để làm tốt việc chứng nhận xuất xứ hàng hóa. Nếu DN không nắm rõ về quy tắc xuất xứ hàng hóa thì hàng hoá làm ra đi sang thị trường của đối tác có FTA cũng không được ưu đãi nhiều về thuế. Hơn nữa, quy tắc chứng nhận xuất xứ hàng hóa là vấn đề kỹ thuật phức tạp, không chỉ tiêu chí xuất xứ của sản phẩm đó mà còn quá trình vận chuyển từ nơi sản xuất tới nơi giao hàng có đảm bảo nguyên trạng hay không, thủ tục cấp chứng nhận xuất xứ có phù hợp hay không?... DN chỉ cần vi phạm một trong các quy định trên là hàng hoá không được hưởng ưu đãi. Vì vậy, vấn đề quy tắc xác nhận xuất xứ hàng hóa cần được phổ biến rộng rãi cho các DN Việt Nam để DN tận dụng sao cho hiệu quả nhất", ông Phạm Bình An chia sẻ thêm.
Trong khi đó, ông Nguyễn Hữu Nam, Phó Giám đốc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chi nhánh TP Hồ Chí Minh, cho biết dù cơ hội từ các FTA và lợi ích DN Việt Nam tận dụng được từ các FTA không nhỏ, nhưng muốn tận dụng các cơ hội này, các DN cần nắm được các thông tin yêu cầu cụ thể, thiết thực, sâu sát tới từng ngành hàng. Như từng DN hướng đến xuất khẩu thị trường nào, áp dụng FTA nào phù hợp và cần những tiêu chuẩn gì, lộ trình cắt giảm thuế quan nào đã được liệt kê đầy đủ trong các FTA đã có hiệu lực... "Đây là những quy tắc chính trong việc xác định xuất xứ hàng hóa Việt Nam để DN Việt được hưởng ưu đãi khi các FTA được kí kết. Ngoài ra, các DN cũng cần tập trung đi vào đúng trọng điểm thị trường đang cần mặt hàng của mình để xây dựng sản phẩm đáp ứng đúng các tiêu đó thì hàng hóa Việt Nam rất dễ xuất khẩu đi các nước", ông Nguyễn Hữu Nam nói.
Theo Trung tâm hội nhập quốc tế TP Hồ Chí Minh, thời gian tới, để hỗ trợ DN khai thác hiệu quả những lợi ích của EVFTA, TP Hồ Chí Minh sẽ tang cương tạp huân chuyen sau vê EVFTA cho từng nhom DN, khong dan trai ma tạp trung vao vân đê DN cân như vê quy tăc xuât xư hang hoa. Đồng thời, TP Hồ Chí Minh cũng sẽ phôi hơp vơi Bọ Cong Thưong, Bọ Ngoai giao va cac thưong vu, tham tan thưong mai tiêp tuc hô trơ vê thong tin thi trương cac nươc thanh vien EU đê hô trơ xuc tiên thưong mai cho gân 20.000 doanh nghiệp hoat đọng xuât nhạp khâu tren đia ban. Đặc biệt, do TP Hồ Chí Minh la cưa ngo xuât nhạp khâu vơi thi trường chau Au cua ca khu vưc phia Nam nên chiên lươc cua TP Hồ Chí Minh la phat triên cac dich vu hô trơ xuât nhạp khâu phat triên vê ha tâng logictis, đê cung cac tinh đưa hang hoa vao chau Au nhanh hon vơi chi phi thâp hon.
Doanh nghiệp gỗ lo mất thị trường xuất khẩu vì chậm "lớn" Hiện nay, doanh nghiệp FDI vẫn đang thống lĩnh tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm từ gỗ. Nếu không nhanh lớn mạnh về quy mô, doanh nghiệp Việt hoàn toàn có thể thua trên "sân nhà", đánh mất thị trường xuất khẩu từ các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) đã ký kết. Doanh nghiệp chế biến gỗ của...