Xây dựng chuỗi giá trị nông sản hàng hóa
Thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, tỉnh Tiền Giang hình thành hai vùng sản xuất lúa tập trung, gồm vùng trồng lúa chất lượng cao ở các huyện, thị phía Tây có tổng diện tích 31.100 ha, sản lượng khoảng 600.000 tấn lúa/năm ở các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Tân Phước; vùng trồng lúa đặc sản ở các huyện, thị phía Đông có tổng diện tích 23.500 ha, sản lượng khoảng 250.000 tấn lúa/năm, chủ yều ở hai huyện ven biển là Gò Công Đông và Gò Công Tây.
Thu hoạch lúa Hè Thu bằng cơ giới ở huyện Cai Lậy.
Các vùng nông sản hàng hóa trên thuận lợi tiến tới hình thành các chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ, ổn định đầu ra sản phẩm, thu nhập và đời sống của người dân nâng lên.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Tiền Giang Trần Văn Dũng cho biết, để tập trung nguồn lực phát triển chuỗi giá trị nông sản hàng hóa, UBND tỉnh đã ban hành danh mục các ngành hàng, sản phẩm nông nghiệp quan trọng khuyến khích. Đồng thời, ưu tiên hỗ trợ thực hiện liên kết gắn với tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn tỉnh, thu hút các doanh nghiệp đầu tư lĩnh vực nông nghiệp theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 5 tháng 7 năm 2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Địa phương cũng tổ chức và quản lý chuỗi giá trị nông sản đạt hiệu quả, khuyến khích hộ sản xuất, kinh doanh nhỏ lẻ hợp tác với nhau và hợp tác, liên kết với các đối tác tiêu thụ sản phẩm trong chuỗi giá trị nông sản. Qua đó, giải quyết đầu ra cho nông sản hàng hóa vừa đáp ứng nhu cầu thị trường… Ngành nông nghiệp tỉnh Tiền Giang cùng các cấp, các ngành vận động nông dân vào làm ăn tập thể kiểu mới, tạo mối quan hệ sản xuất tiên tiến làm tiền đề liên kết chuỗi giá trị.
Tỉnh đã chọn 10 hợp tác xã nông nghiệp tham gia mô hình thí điểm hợp tác xã kiểu mới gắn với tiêu thụ theo chuỗi giá trị nông sản hàng hóa giai đoạn 2016 – 2020. Theo đó, có 5 hợp tác xã thuộc lĩnh vực lúa gạo và 5 hợp tác xã chuyên ngành trái cây. Các hợp tác xã được hỗ trợ đầu tư trụ sở, kho bãi, tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi, đào tạo và tập huấn nâng cao trình độ cán bộ hợp tác xã; xúc tiến thương mại, kết nối doanh nghiệp cung ứng vật tư đầu vào và bao tiêu đầu ra…
Nhờ vậy đến nay, Tiền Giang hình thành được 93 mô hình liên kết sản xuất – tiêu thụ nông sản. Trên lĩnh vực trồng trọt có 80 mô hình với diện tích 13.000 ha, sản lượng 121.800 tấn/ năm; lĩnh vực chăn nuôi hình thành 10 mô hình, quy mô 1,2 triệu con; lĩnh vực thủy sản có 3 mô hình, diện tích 282 ha, sản lượng 4.100 tấn.
Video đang HOT
Nổi bật có Hợp tác xã Mỹ Quới (xã Hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè) liên kết với Công ty TNHH Phước Lộc Thiên Hộ trồng lúa chất lượng cao. Công ty TNHH HK liên kết với các tổ chức nông dân ở huyện Gò Công Tây trồng lúa thơm VD – đặc sản Gò Công. Sản phẩm gạo thơm VD – đặc sản Gò Công của Công ty TNHH HK cũng đã đạt OCOP Tiền Giang hạng 3 sao…
Lúa hàng hóa trong các mô hình liên kết được doanh nghiệp thu mua cao hơn từ 200-300 đồng/kg. Ông Mai Đức Thắng, nông dân xã Đồng Thạnh, huyện Gò Công Tây (Tiền Giang) liên kết 2 ha lúa sản xuất theo chuỗi giá trị với Công ty TNHH Thương mại HK cho biết: “Việc liên kết này giúp nông dân an tâm sản xuất. Đến mùa vụ, nông dân tổ chức thu hoạch, ghi lượng lúa khi cân giao doanh nghiệp và thu tiền, thật tiện lợi”.
Các Hợp tác xã rau an toàn Phú Quới (xã Yên Luông, Gò Công Tây), Hợp tác xã rau an toàn Gò Công (thị xã Gò Công), Hợp tác xã rau an toàn Hòa Thạnh (xã Bình Tân, Gò Công Tây), Hợp tác xã rau an toàn Tân Đông (Gò Công Đông),.. hình thành chuỗi liên kết – tiêu thụ rau an toàn với hệ thống các siêu thị, nhà hàng, bếp ăn tập thể, quy mô tiêu thụ đat từ 2-6 tấn sản phẩm/ ngày/hợp tác xã. Giá rau luôn cao hơn từ 2.000-3.000 đồng/kg so với sản xuất bên ngoài, nông dân an tâm về đầu ra.
Xác định vai trò chuỗi giá trị nông sản hàng hóa quyết định sự phát triển bền vững trong giai đoạn mới, Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Hưng Thịnh Phát (huyện Chợ Gạo) tuy mới thành lập vào tháng 3/2021 với 39 thành viên, vốn góp 500 triệu đồng cũng đã liên kết 200 nông hộ địa phương xây dựng vùng nguyên liệu 130 ha thanh long sản xuất theo tiêu chí GobalGAP phục vụ xuất khẩu.
ADVERTISING
X
Tương tự, Hợp tác xã Rau an toàn Hòa Thạnh (Bình Tân, Gò Công Tây) chuyển giao kỹ thuật trồng rau VietGAP, cung ứng vật tư đầu vào vừa bao tiêu đầu ra với giá ổn định, nông dân lãi cao…Giám đốc Nguyễn Thanh Quang cho biết, hợp tác xã đã liên kết cung ứng nông sản với chuỗi cửa hàng Bách hóa Xanh, hệ thống siêu thị và các bếp ăn tập thể. Sản lượng cung ứng ổn định ở mức 3 tấn rau các loại/ngày.
Tuy nhiên, thực tế, khâu tổ chức sản xuất, tiêu thụ nông sản vẫn còn nhiều bất cập; tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, tự phát phổ biến nên chi phí tăng, giá thành cao, giảm sức cạnh tranh. Việc áp dụng các tiêu chuẩn GAP vào sản xuất chưa rộng rãi nên số lượng nông sản sạch còn hạn chế. Trong khi đó, các vùng sản xuất chuyên canh của địa phương như: thanh long Chợ Gạo, dứa Tân Phước, lúa thơm VD 20 vùng Gò Công, sầu riêng Ngũ Hiệp, xoài cát Hòa Lộc, vú sữa Vĩnh Kim,…hứa hẹn lợi thế rất lớn trong xây dựng chuỗi nông sản hàng hóa.
Trong giai đoạn 2021 – 2025, để thúc đẩy phát triển liên kết chuỗi giá trị nông sản hàng hóa, Sở Công Thương tỉnh Tiền Giang hỗ trợ kỹ thuật, phát huy vai trò của nhà nước và doanh nghiệp đầu tàu trong liên kết dọc, tăng cường liên kết ngang, đa dạng hóa sản phẩm và tổ chức sản xuất theo hướng nông nghiệp hữu cơ…
Theo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang Nguyễn Văn Mẫn, tỉnh sẽ tiếp tục lập dự án xây dựng các chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ một số sản phẩm chủ lực như: xoài cát Hòa Lộc, thanh long, sầu riêng, gà ri, chim cút…
Mục tiêu phấn đấu đến năm 2025 hỗ trợ xây dựng 110 chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp giữa nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp nhằm khắc phục tình trạng làm ăn nhỏ lẻ, manh mún, không kiểm soát được chất lượng vừa giúp kết nối phát triển bền vững.
Theo đó, xây dựng từ 30-40 chuỗi liên kết từ khâu sản xuất đến sơ chế, chế biến, tiêu thụ sản phẩm làm mô hình điểm để nhân rộng. Mặt khác, tích cực mời gọi các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; phối hợp các đơn vị liên quan đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại cho nông sản chủ lực.
Giải pháp thu hút nông dân vào hợp tác xã
Trên địa bàn tỉnh có nhiều hợp tác xã (HTX) được thành lập mới, nhưng số thành viên tham gia không nhiều.
Nguyên nhân là do HTX chưa thật sự trở thành chỗ dựa trong sản xuất và tiêu thụ nông sản cho nông dân.
Cần tạo chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ
Trong thời buổi kinh tế thị trường, nếu các HTX nông nghiệp (HTXNN) không thay đổi tư duy, đổi mới phương thức hoạt động, mà chỉ phụ thuộc vào lĩnh vực cấp bù thủy lợi phí và một số dịch vụ nhỏ lẻ, thì chắc chắn sẽ không thể phát triển. Nhận thức được điều này, những năm gần đây, nhiều HTXNN đã chủ động mở rộng các dịch vụ, tạo ra được chuỗi giá trị sản xuất và tiêu thụ, đem lại lợi nhuận cho HTX và nông dân.
Nhiều hợp tác xã nông nghiệp trong tỉnh đã làm cầu nối liên kết giữa Trang trại bò sữa Vinamilk Quảng Ngãi với nông dân để sản xuất bắp sinh khối.
Đơn cử như các HTXNN: Hành Nhân (Nghĩa Hành), Nghĩa Lâm (Tư Nghĩa), Bình Dương (Bình Sơn), Tịnh Khê (TP.Quảng Ngãi), Tịnh Thọ (Sơn Tịnh)... đã liên kết với nhiều doanh nghiệp (DN) để sản xuất lúa giống, rau, củ, quả, bắp sinh khối cũng như các dịch vụ khác, với mục tiêu tăng thu nhập, giảm chi phí cho người nông dân.
Giám đốc HTXNN Bình Dương Bạch Hùng cho biết, muốn nông dân tham gia vào HTX thì HTX phải tìm đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp. Thời gian qua, HTX đã liên kết với các DN trong sản xuất lúa giống, đem lại lợi nhuận cao cho xã viên, nông dân. Bên cạnh đó, vào mỗi mùa vụ sản xuất, HTX đã hỗ trợ nông dân mua phân bón theo hình thức trả chậm, giá thấp hơn thị trường.
Tương tự, HTXNN Hành Nhân cũng đã thu hút ngày càng nhiều nông dân tham gia vào HTX. Năm 2020, HTX có 679 thành viên, đến nay đã tăng lên 729 thành viên. Theo Giám đốc HTXNN Hành Nhân Nguyễn Văn Đóa, cái khó trong phát triển NN hiện nay chính là nông sản làm ra luôn rơi vào điệp khúc "được giá mất mùa, được mùa mất giá". Vì thế, một khi nông dân thấy được năng lực của HTX thì sẽ tự nguyện tham gia vào HTX, từ đó thuận lợi cho HTX hoạt động và tổ chức sản xuất.
Năng động với cơ chế thị trường
Bên cạnh những HTX chủ động đổi mới, linh hoạt thích ứng với thị trường, thì vẫn còn nhiều HTX thụ động, trông chờ ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Chính vì vậy, dù đã thành lập nhiều năm nhưng một số HTX chỉ có hơn chục thành viên tham gia. Một số HTX sau một thời gian ngắn thành lập đã tự tan rã, vì Ban quản trị HTX không có năng lực, không tâm huyết vì lợi ích chung... Việc thu hút thành viên tại các HTX miền núi cũng gặp nhiều khó khăn, vì người dân chưa quen với kinh tế tập thể. Có HTX đã táo bạo đưa cây trồng mới về sản xuất tại địa phương, nhưng vì không phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng dẫn đến thất bại. Đơn cử như dự án trồng cây sachi của HTX Nông nghiệp và Dịch vụ Ba Tiêu (Ba Tơ).
Ngoài ra, một nguyên nhân khác khiến nhiều người dân e ngại khi tham gia vào các HTX, đó là phải đóng phí thành viên trung bình từ 300 - 400 nghìn đồng/người. Trong khi đó, trước mắt nông dân vẫn chưa thấy được năng lực kết nối thật sự của HTX trong sản xuất và tiêu thụ nông sản. Thậm chí, đã từng có trường hợp, HTX vận động người dân tham gia trồng bí đỏ để bán cho DN. Tuy nhiên, sau khi người dân trồng đến vụ thu hoạch thì DN lại không đến thu mua, đẩy nông dân vào thế khó.
Ở tỉnh ta, ngoài trồng cây lúa thì dưa hấu, ớt là hai loại cây được nông dân trồng nhiều nhất vì phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng cũng như mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, hiện tại dường như chưa có HTXNN nào đảm nhận được vai trò kết nối với DN để tiêu thụ hai loại nông sản này cho nông dân. Mấu chốt của vấn đề là chỉ khi nào các HTXNN mang lại lợi ích thiết thực thì nông dân mới vào HTX.
Liên kết bò sữa theo chuỗi: Cả doanh nghiệp, nông dân đều "khỏe" Thời gian qua, nhờ xây dựng chuỗi liên kết với các doanh nghiệp, hợp tác xã nên chăn nuôi bò sữa trên địa bàn thành phố tiêu thụ ổn định. Theo bà Vương Thị Thúy (ở xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm), khoảng 5 năm trở lại đây, do liên kết với Hợp tác xã Chế biến sữa bò Phù Đổng, hiện mỗi...