Vượt khó, doanh nghiệp mía đường tìm cơ hội trước thềm niên vụ mới
Trong dài hạn, thị trường EU sẽ đem lại cơ hội lớn cho các doanh nghiệp có bộ sản phẩm đường và sau đường đa dạng, đạt tiêu chuẩn cao về chất lượng.
Người dân chăm sóc mía. (Ảnh: Quang Cường/TTXVN)
Niên vụ 2019-2020 là một năm khó khăn đối với ngành đường Việt Nam. Theo Hiệp hội Mía đường Việt Nam (VSSA), gần 1/3 số nhà máy đường tại Việt Nam đã phải đóng cửa trong niên vụ 2019-2020.
Doanh nghiệp mía đường đang phải đối mặt với không ít những thách thức nhưng vẫn còn những cơ hội phía trước.
Nhiều thách thức trước thềm niên vụ mới
Ngày 5/5/2020, tất cả 28 nhà máy đường đã kết thúc vụ ép mía của niên vụ 2019-2020 với sản lượng lũy kế đạt 7,39 triệu tấn mía, giảm 39,4% so với cùng kỳ năm ngoái và luyện được 769.169 tấn đường mía các loại, giảm 34,3% so với cùng kỳ năm ngoái, mức thấp nhất trong 19 năm trở lại đây do diễn biến thời tiết không thuận lợi và áp lực cạnh tranh với đường và chất tạo ngọt nhập khẩu.
Tuy nhiên, nhờ hưởng lợi từ diễn biến tăng của giá đường trong nước trong niên vụ 2019-2020 (tăng 13,6%), một số doanh nghiệp mía đường niêm yết đã đạt mức tăng trưởng khá ấn tượng về doanh thu và lợi nhuận.
Trong số đó, hai doanh nghiệp có khả năng giữ vững năng lực cạnh tranh trong bối cảnh đường nhập khẩu giá rẻ tràn về Việt Nam là Công ty cổ phần Mía đường Sơn La (mã SLS) và Công ty cổ phần Thành Thành Công (mã SBT) với mức tăng trưởng doanh thu đạt lần lượt 22,1% và 26,2%.
SLS có khả năng cạnh tranh về giá khi có giá thành sản xuất ở mức thấp, tiệm cận với đường sản xuất tại Thái Lan; SBT có khả năng cạnh tranh về sản phẩm khi sở hữu bộ sản phẩm đa dạng với nhiều phân khúc, bao gồm các sản phẩm đường cao cấp đem lại giá trị gia tăng cao.
Tuy nhiên, trong niên vụ 2020-2021, SLS đã giảm mục tiêu lợi nhuận với 816 tỷ đồng doanh thu, lãi sau thuế 26 tỷ đồng; giảm lần lượt 22% và 78% so với niên độ trước.
Công ty Mía đường Lam Sơn (mã LSS) tuy cũng sở hữu bộ sản phẩm đường đa dạng và tập khách hàng công nghiệp lớn nhưng để mất thị phần tại kênh tiêu dùng, doanh thu giảm nhẹ 2,5%.
Nhờ giá đường trong nước tăng 13,6% trong niên vụ 2019-2020, lợi nhuận của doanh nghiệp đạt tăng trưởng khả quan, nhưng tỷ suất lợi nhuận vẫn ở mức rất thấp so với các doanh nghiệp cùng ngành.
Video đang HOT
Theo dự báo niên vụ 2020-2021, ngành mía đường vẫn phải tiếp tục đương đầu với khó khăn thách thức từ nhiều phía. Xu hướng phục hồi của giá đường đang bị đánh giá là thiếu bền vững khi mà giá dầu thô có nguy cơ sẽ quay đầu giảm trong thời gian tới khi Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ cùng các đồng minh (OPEC ) chưa có sự đồng thuận cho kế hoạch cắt giảm sản lượng dài hạn. Mía là một trong những nguyên liệu sản xuất ethanol.
[Nông dân bỏ trồng mía, nhiều nhà máy đường buộc phải đóng cửa]
Ngoài ra, dịch bệnh COVID-19 với diễn biến phức tạp tại nhiều quốc gia trên thế giới sẽ tác động trực tiếp và gián tiếp tới nhu cầu tiêu thụ đường và giá đường.
Ông Đặng Việt Anh, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Mía đường Sơn La, cho biết nhiều thách thức vẫn còn ở phía trước thềm niên vụ mới. Lượng tiêu thụ đường suy giảm cũng như việc lưu thông hàng hóa gặp nhiều trở ngại do thực hiện giãn cách xã hội nhằm kiểm soát dịch COVID-19 và áp lực cạnh tranh với đường nhập khẩu từ Thái Lan sau đợt hạn hán là những vấn đề cấp bách sẽ phải đối mặt trong niên vụ 2020- 2021.
Ngành đường trong nước đang mong chờ các bộ, cơ quan triển khai có hiệu quả nội dung Thông báo Kết luận số 88/TB-VPCP ngày 10/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho ngành mía đường.
Đặc biệt, ngành mía đường mong chờ Bộ Công Thương áp dụng biện pháp phòng vệ phù hợp với pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế để bảo vệ sản xuất mía đường trong nước; áp dụng biện pháp chống phá giá đối với đường lỏng sirô ngô và các chất tạo ngọt khác; tăng cường chống buôn lậu đường, đặc biệt tại các địa bàn trọng điểm; tăng cường quản lý thị trường, chống gian lận thương mại.
Cơ hội trong khó khăn
Trong những tháng cuối năm 2020, tiêu thụ đường trong nước được kỳ vọng cải thiện khi đại dịch đang được kiểm soát tốt và các doanh nghiệp thực phẩm-đồ uống bắt đầu sản xuất phục vụ cho các dịp lễ tết lớn. Tuy nhiên, VSSA nhận định giá đường trong nước có dấu hiệu giảm trong niên vụ 2020-2021 do tồn kho đường vẫn ở mức cao, đường nhập khẩu giá rẻ vẫn tiếp tục thâm nhập vào thị trường, đặc biệt khi Thái Lan được kỳ vọng sẽ khôi phục sản xuất trong niên vụ 2020-2021.
Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu của Công ty cổ phần Chứng khoán FPT (FPTS) đánh giá các doanh nghiệp trong nước đang có cơ hội lớn đối với thị trường Trung Quốc trong ngắn hạn và thị trường EU trong dài hạn.
Cụ thể, dưới tác động của dịch COVID-19 và lũ lụt, Trung Quốc đã tăng cường nhập khẩu đường nhằm dự trữ lương thực thiết yếu; trong đó có đường từ Việt Nam. Đây là cơ hội lớn trong ngắn hạn cho các doanh nghiệp đường Việt Nam có khả năng xuất khẩu sang Trung Quốc, đặc biệt là các doanh nghiệp đường tại miền Bắc, có vị trí địa lý gần với biên giới Trung Quốc.
Còn trong dài hạn, thị trường EU sẽ đem lại cơ hội lớn cho các doanh nghiệp có bộ sản phẩm đường và sau đường đa dạng, đạt tiêu chuẩn cao về chất lượng.
Người dân thu hoạch mía. (Ảnh: Quang Cường/TTXVN)
Các chuyên gia của FPTS dẫn chứng Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) đã chính thức có hiệu lực từ ngày 1/8/2020, đem lại cơ hội xuất khẩu cho ngành đường Việt Nam.
Hiệp định EVFTA quy định hạn ngạch xuất khẩu 20.000 tấn đường các loại và 400 tấn đường đặc biệt từ Việt Nam sang EU sẽ được miễn thuế. Thuế xuất khẩu ngoài hạn ngạch vẫn được tính với thuế suất 339 EUR/tấn đối với đường thô và 419 EUR/tấn đối với đường luyện.
Theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), sản lượng đường nhập khẩu của EU trong niên vụ 2020-2021 ước đạt 2,1 triệu tấn (-8,7%), tương ứng với khoảng 11,3% sản lượng đường tiêu thụ trong khu vực. Để đạt được lợi thế cạnh tranh tại thị trường này, các sản phẩm nông sản (bao gồm mặt hàng đường) cần đảm bảo được các yêu cầu cao về chất lượng, truy xuất nguồn gốc.
Bên cạnh đó, do mức tiêu thụ đường bình quân đầu người tại EU đã ở mức cao (35 kg/người/năm, cao hơn mức trung bình thế giới 22,6 kg/người/năm), nhu cầu sử dụng đường của thị trường này đang hướng đến các sản phẩm cao cấp như đường organic, đường ăn kiêng, đường có bổ sung thêm dưỡng chất… Đây là những sản phẩm có giá bán cao, tỷ suất lợi nhuận đạt từ 35-40%.
Trong những năm gần đây, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành trung ương và địa phương luôn quan tâm, chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi theo quy định pháp luật và phù hợp với thông lệ quốc tế để ngành mía đường phát triển.
Nhằm “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới,” Chính phủ đã ra Chỉ thị số 28/CT-TTg ngày 14/7/2020 về việc triển khai các giải pháp phát triển ngành mía đường Việt Nam.
Tại Chỉ thị này, Thủ tướng giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan chủ động theo dõi, kịp thời đề xuất việc áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại đối với sản phẩm đường nhập khẩu phù hợp với các cam kết quốc tế; hình thành cơ sở dữ liệu đồng bộ, chính xác về tình hình xuất khẩu, nhập khẩu, sản xuất trên cơ sở thông tin do các cơ quan chức năng cung cấp để sẵn sàng hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tư vấn, chuẩn bị hồ sơ phòng vệ thương mại./.
Rau quả nhiệt đới hút người dùng, tăng tốc vào EU
Những loại trái cây nhiệt đới và mới lạ sẽ thu hút người tiêu dùng EU. Điều này sẽ là thế mạnh cho các nhà xuất khẩu từ các quốc gia có khí hậu nhiệt đới, trong đó có Việt Nam.
Dư địa xuất khẩu trái cây Việt Nam sang EU rất lớn. Ảnh: N.Thanh.
Do tác động của dịch Covid 19, xuất khẩu rau, củ, quả của Việt Nam gặp nhiều khó khăn thời gian qua. Theo Bộ Công Thương, 8 tháng năm 2020, xuất khẩu rau quả ước đạt 2,26 tỷ USD, giảm 11,3% so với cùng kỳ năm 2019.
Trong xu hướng sụt giảm xuất khẩu rau quả nói chung sang nhiều thị trường, điểm đáng chú ý là kể từ ngày 1/8/2020 khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) có hiệu lực, xuất khẩu rau quả Việt sang EU lại ghi nhận tín hiệu khá tích cực.
Cụ thể, tháng 8/2020, trị giá xuất khẩu các sản phẩm rau quả của Việt Nam sang EU ước đạt 14,7 triệu USD, tăng 25,2% so với tháng trước đó. Dự kiến, xuất khẩu rau, củ, quả sang EU thời gian tới sẽ tiếp tục khởi sắc.
Ông Mathijs van den Broek, Thành viên Ban điều hành, Hiệp hội Doanh nghiệp Hà Lan tại Việt Nam (DBAV) cho biết, EU là một thị trường có nhu cầu ổn định về rau quả (chiếm 45% trị giá thương mại hàng rau quả toàn cầu).
Quy mô thị trường rộng lớn và nhu cầu theo mùa của EU chính là thị trường hấp dẫn cho các nhà cung cấp ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, các nhà nhập khẩu EU thường tìm kiếm các nhà cung cấp đáng tin cậy trong các khu vực chiến lược để có thể cung cấp rau quả cho người tiêu dùng bất kỳ lúc nào trong năm.
"Những loại trái cây nhiệt đới và mới lạ sẽ thu hút người tiêu dùng EU. Điều này sẽ là thế mạnh cho các nhà xuất khẩu từ các quốc gia có khí hậu nhiệt đới, trong đó có Việt Nam", ông Mathijs van den Broek nói.
Dù EU là thị trường nhập khẩu rau quả đầy tiềm năng nhưng thực tế cho thấy đến nay, lượng rau quả nhập khẩu của EU từ Việt Nam chiếm tỷ trọng rất nhỏ, chỉ khoảng 0,08% lượng nhập khẩu của EU.
Trong nhóm rau, củ, quả tươi xuất khẩu sang khu vực EU, trái cây luôn đạt kim ngạch xuất khẩu cao nhất. Mặt hàng xuất khẩu chủ lực sang EU là dứa, thanh long, cơm dừa, chôm chôm, xoài...
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Quốc Doanh cho hay, do sản phẩm của Việt Nam và EU mang tính bổ trợ, EU có thế mạnh về trái cây ôn đới, trong khi thế mạnh của Việt Nam là trái cây nhiệt đới. Do đó, dư địa xuất khẩu trái cây Việt Nam sang EU rất lớn.
Từ góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Đình Tùng, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn Vina T&T cho biết, năm 2019, doanh nghiệp xuất khẩu 6,45 triệu USD trái cây tươi sang EU. Trong năm 2020, với việc EVFTA có hiệu lực, Vina T&T kỳ vọng doanh số xuất khẩu sẽ tăng trưởng 20%.
"Trước khi có EVFTA, trái cây Việt Nam tại EU có giá khá cao so với các đối thủ như Thái Lan, Indonesia, Trung Quốc, Malaysia... Do đó, khi thuế đã được giảm, các nhà nhập khẩu sẽ ưu tiên mua hàng của Việt Nam hơn", ông Tùng nói.
Ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) nhận định, EU là thị trường "khó tính", có yêu cầu rất khắt khe với các quy định về hàng rào kỹ thuật, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, chất cấm...
Khi xuất khẩu rau, quả sang EU, nếu bị vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm doanh nghiệp sẽ bị trả hàng, gây thiệt hại không chỉ riêng doanh nghiệp mà cả ngành rau quả Việt Nam. Do đó, việc sản xuất an toàn theo hướng an toan là yêu cầu bắt buộc.
Bên cạnh đó, việc chế biến sâu sẽ giúp tận dụng được các sản phẩm rau, củ, quả vào làm nguyên liệu cho chế biến, từ đó khai thác tối đa giá trị của các sản phẩm thu hoạch được, giúp nông dân tăng thêm thu nhập do sản phẩm làm ra được tiêu thụ hết.
Thứ trưởng Lê Quốc Doanh cũng lưu ý thêm, dù mở cửa về thuế quan nhưng hàng rào kỹ thuật của EU rất khắt khe nên các doanh nghiệp, nông dân cần chú ý, tìm hiểu kỹ về yêu cầu của thị trường. Theo đó, doanh nghiệp và nông dân cần phối hợp chặt chẽ để xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn, đáp ứng yêu cầu thị trường.
EU là thị trường xuất khẩu lơn thứ 4 của rau quả Việt Nam. Rau quả là một trong những mặt hàng nông sản được hưởng lợi ngay khi EVFTA có hiệu lực khi 94% trong tổng số 547 dòng thuế rau quả và các sản phẩm chế biến từ rau quả được xóa bỏ.
Gia Lai: Tăng chất lượng nông sản đáp ứng yêu cầu xuất khẩu vào EU Tỉnh Gia Lai cũng đang nhân rộng các mô hình sản xuất hữu cơ, từng bước chuyển đổi phương thức sản xuất đáp ứng yêu cầu xuất khẩu vào thị trường EU. Đại biểu thực hiện nghi thức lễ cắt băng xuất khẩu chanh leo sang thị trường châu Âu tại Gia Lai. (Ảnh: Hồng Điệp/TTXVN) Tỉnh Gia Lai hiện có 2 sản...