Vùng căn cứ địa cách mạng Mường Phăng-Điện Biên hôm nay
Năm tháng qua đi, vùng căn cứ địa cách mạng Mường Phăng cũng đã khoác lên mình một màu áo mới, đời sống kinh tế của đồng bào các dân tộc ở các bản làng vùng cao nơi đây đã đổi thay.
Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ trở thành điểm tham quan du lịch thu hút du khách mỗi khi đến thăm vùng đất lịch sử. (Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN)
Nằm trên địa bàn xã Mường Phăng (thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên), Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ là địa điểm thứ 3 và là địa điểm cuối cùng đặt cơ quan đầu não của quân đội ta trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Tại nơi này, bằng tài thao lược quân sự của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa ra những quyết sách đúng đắn để làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.”
Trải qua 66 năm, Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ vẫn được gìn giữ, bảo tồn vẹn nguyên, là biểu tượng của đỉnh cao trí tuệ quân sự và khí phách anh hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Năm tháng qua đi, vùng căn cứ địa cách mạng Mường Phăng cũng đã khoác lên mình một màu áo mới, đời sống kinh tế của đồng bào các dân tộc ở các bản làng vùng cao nơi đây đã đổi thay.
Mường Phăng – Nơi đặt cơ quan đầu não của quân đội ta
Trong những ngày tháng 5 lịch sử, chúng tôi trở lại Mường Phăng. hành trình tham quan Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ của chúng tôi có sự góp mặt của nhân viên Tổ quản lý bảo vệ di tích, anh Lò Văn Ánh, người dân tộc Thái.
Vượt qua thung lũng Mường Phăng, nơi thảm lúa đang chín vàng, qua những bản làng của Cộng đồng dân tộc Thái, chúng tôi đến Sở Chỉ huy Chiến dịch. Trưa tháng 5 ở vùng lòng chảo tứ bề là núi cao thật oi bức nhưng khí hậu trên con đường dài gần 1 km dẫn sâu vào khuôn viên Sở Chỉ huy thật mát mẻ, dễ chịu. Lý giải về điều này, anh Lò Văn Ánh, nhân viên Tổ quản lý, bảo vệ di tích cho hay: “Nhiệt độ ở khuôn viên Sở Chỉ huy Chiến dịch khi nào cũng chênh lệch từ 3 đến 5 độ C so với bên ngoài vùng lòng chảo Mường Phăng. Chính những tán rừng của đại ngàn Mường Phăng và những con suối nhỏ đã điều hòa khí hậu, tạo cảm giác dễ chịu cho du khách khi đặt chân vào khu di tích.”
Anh Lò Văn Ánh cho biết thêm: “Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ được xây dựng dọc theo con suối nhỏ dưới chân núi Pú Đồn, ẩn dưới tán rừng đại ngàn, được bố trí thành một hệ thống liên hoàn, bao bọc trước sau, có hầm hào, lán trại thuận tiện, phù hợp với tốc độ làm việc khẩn trương, vừa đảm bảo bí mật, an toàn tuyệt đối của Bộ Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Xét về phương diện địa lý, Sở Chỉ huy Chiến dịch cách Trung tâm Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của địch ở thung lũng Mường Thanh gần 20km theo đường chim bay và gần 40 km đường đi bộ.
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ Chỉ huy Chiến dịch của quân đội ta đã đóng chân tại đây 105 ngày, từ ngày 31/1/1954 đến ngày 15/5/1954. Trước đó, địa điểm thứ nhất của Sở Chỉ huy đặt tại hang Thẩm Púa (xã Chiềng Sinh, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên) trong thời gian 32 ngày, từ ngày 17/12/1953 đến 17/1/1954. Địa điểm thứ 2 đặt tại bản Huổi He (xã Nà Tấu, nay thuộc thành phố Điện Biên Phủ) trong thời gian 13 ngày, từ ngày 18/1/1954 đến 30/1/1954.
Trên con đường phủ một lớp mỏng rêu xanh, chúng tôi được tham quan hệ thống lán, trại, hầm hào công sự của Sở Chỉ huy Chiến dịch; từ lán làm việc của Ban thông tin; lán ở, làm việc và hầm của Trưởng Ban thông tin đến lán tác chiến, Hội trường giao ban…
Theo anh Lò Văn Ánh, nhân viên Tổ quản lý, bảo vệ di tích, các lán làm việc của các cơ quan trong Sở Chỉ huy là những lán nhỏ giấu mình dưới tán cây rừng nguyên sinh. Dưới nền của các lán là những căn hầm nhỏ, trên nắp hầm lát những cây gỗ tròn chắc chắn để đề phòng máy bay hoặc pháo sáng của địch bắn tới.
Nằm sâu trong Sở chỉ huy là Lán làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Lán có diện tích 18 m2 được làm bằng vật liệu khai thác tại chỗ. Bên ngoài liếp nứa của lán được che thêm những tấm cỏ gianh để tránh gió lùa và giấu bớt ánh sáng về đêm.
Một góc vùng căn cứ địa cách mạng Mường Phăng nhìn từ trên cao. (Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN)
Từ Lán của Đại tướng Võ Nguyên Giáp thông sang Lán của tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái là đường hầm xuyên núi dài 69m. Hầm cao 1,7m, rộng từ 1 đến 3m, giữa hầm có một phòng họp. Hầm xuyên núi là công trình lớn nhất ở Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ do Trung đội Công binh thực hiện và hoàn thành trong 28 ngày đêm liên tục, được đưa vào sử dụng từ ngày 15/4/1954 giữa đợt tấn công thứ 2 của Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Những năm qua, công tác bảo vệ di tích, bảo vệ rừng, cảnh quan khu sinh cảnh di tích luôn được các cấp ngành, chính quyền địa phương và đơn vị liên quan chung tay thực hiện.
Anh Lò Văn Ánh, nhân viên Tổ quản lý, bảo vệ di tích Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ cho biết: “Những năm qua, dù là ngày thường hay những dịp lễ, Tết, chúng tôi luôn chủ động trong công tác quản lý bảo vệ, quét dọn vệ sinh, phòng cháy chữa cháy và an ninh trật tự trong khu di tích. Đặc biệt, việc bồi dưỡng kỹ năng, kiến thức để phục vụ du khách cho đội ngũ thuyết minh viên cũng được quan tâm hơn.”
Sáu mươi sáu năm trôi qua, di tích Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ được gìn giữ, bảo vệ nguyên vẹn, trường tồn với thời gian và trở thành Di tích cấp quốc gia đặc biệt mà mỗi người dân Việt Nam cũng đều muốn đến để tham quan, tìm hiểu về lịch sử, cội nguồn.
Đổi thay vùng căn cứ địa cách mạng
Địa hình Mường Phăng là một thung lũng trải dài, bao bọc xung quanh là núi cao, được tắm mát bởi các dòng suối Pá Hốc Khiều (rừng tre xanh), Huổi Luông, hồ Pá Khoang (rừng trúc) nên hàng trăm năm trước, người Thái đã tìm đến vùng đất này định cư, lập bản, khai khẩn ruộng hoang.
Theo số ít cụ cao niên trong xã Mường Phăng còn sống kể lại, cuối năm 1953, thời điểm địch cho quân nhảy dù tăng cường cho Mặt trận Điện Biên Phủ, chúng bố trí lực lượng, lập đồn bốt ở khắp mọi ngả đường vào trận địa và cho máy bay quần thảo khắp nơi nhằm chặt đứt mọi đường tiếp tế lương thực, nhu yếu phẩm và hậu cần cho quân đội Việt Nam.
Video đang HOT
Thời điểm này, người dân Mường Phăng cũng đã tham gia quyên góp, ủng hộ bộ đội gần chục tấn gạo và nhiều gia súc; nhiều người dân trong cộng đồng các dân tộc trên địa bàn đã tình nguyện xin đi vận chuyển quân lương.
Khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp chuyển địa điểm đóng chân của Sở Chỉ huy Chiến dịch từ bản Huổi He (xã Nà Tấu) về Mường Phăng (từ ngày 31/1/1954 đến ngày 15/5/1954) thì người dân thuộc cộng đồng các dân tộc ở Mường Phăng lại chung tay đóng góp sức người, sức của cùng lực lượng công binh khảo sát địa hình để xây dựng Sở Chỉ huy; làm giao liên; quyên góp lương thực, thực phẩm ủng hộ bộ đội; giữ bí mật cho quân ta xây dựng căn cứ và tham gia khai thác đá mở đường cho chiến dịch, góp phần đảm bảo Chiến dịch toàn thắng.
Ông Lò Văn Lả, bản Che Căn, xã Mường Phăng cho biết sau năm 1954, đời sống của bà con dân ở các bản gặp rất nhiều khó khăn do nhà cửa, ruộng vườn, gia súc gia cầm còn ít. Bản làng khi đó cũng thưa thớt, nằm cách xa nhau hàng giờ đồng hồ đi bộ qua những lối mòn cắt rừng, vắt qua đồi núi. Nhiều năm sau khi kết thúc Chiến dịch Điện Biên Phủ, người dân tăng gia sản xuất, khai hoang ruộng nương, dần đẩy lùi cái đói, cái nghèo. Khi đời sống no ấm hơn người dân ở các bản làng đã bảo tồn được những giá trị văn hóa, lễ hội, tín ngưỡng, các làng nghề truyền thống như ngày hôm nay.
Đường đến các thôn bản được đổ bêtông sạch đẹp. (Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN)
Về Mường Phăng hôm nay, đi trên các con đường bê tông đấu nối các thôn bản, ngắm nhìn khung cảnh bản làng yên bình tựa lưng vào núi, soi mình bên suối, chứng kiến hệ thống điện, đường, trường, trạm, hòa mình vào những hoạt động hối hả của người dân càng cảm nhận rõ hơn nhịp sống mới của Mường Phăng – xã nằm ngoài vùng ngoài lòng chảo Mường Thanh.
Ông Mùa A Kềnh, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Mường Phăng, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên cho biết: Sau chặng đường 66 năm, điều nổi bật nhất và là niềm vui đối với cấp ủy, chính quyền cũng như người dân địa phương đó là vấn đề xóa đói giảm nghèo, đời sống kinh tế của bà con nhân dân trên địa bàn đã có nhiều bước đổi thay.
Hiện nay, xã Mường Phăng chỉ còn 8% hộ nghèo. Xã đã về đích thành công Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới. Trong một vài năm tới, chúng tôi phấn đấu đẩy mạnh thực hiện việc xóa đói giảm nghèo, đưa tỉ lệ hộ nghèo của xã giảm mạnh, bền vững.
Là 1 trong 13 xã vùng ngoài lòng chảo Mường Thanh, cuối năm 2019, xã Mường Phăng có hơn 1.100 hộ dân với gần 5.300 nhân khẩu thuộc cộng đồng các dân tộc Mông, Thái, Kinh sinh sống ở hơn 20 thôn, bản. Đến nay, thu nhập bình quân đầu người của xã đạt hơn 30 triệu đồng/năm; 99,1% số hộ gia đình có nhà ở đạt tiêu chuẩn chất lượng theo quy định; hơn 80% thôn, bản đạt danh hiệu thôn bản văn hóa.
Toàn xã có hơn 520 ha lúa 2 vụ, nâng tổng sản lượng lương thực đạt hơn 2.800 tấn/năm, bình quân đầu người đạt hơn 5.5 tạ/người/năm; có 200 ha diện tích trồng ngô, sắn… gần 30 ha rau màu các loại, hơn 63 ha nuôi trồng thủy sản, gần 40 ha cây ăn quả.
Mường Phăng hôm nay đang có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh, phá vỡ thế độc canh cây lúa khi phát triển nhiều mô hình chăn nuôi cá, gia súc, gia cầm; mở rộng diện tích, quy mô trồng các loại cây ăn quả “đặc hữu” vùng miền như hồng, mắc cọp, mận, sơn tra; đẩy mạnh các loại hình du lịch để tăng thêm thu nhập, phát triển kinh tế bền vững… Bên cạnh đó, công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng dân tộc cũng được chính quyền, người dân nỗ lực thực hiện.
Từ lợi thế, tiềm năng du lịch khi có nhiều di tích thuộc Quần thể di tích cấp quốc gia đặc biệt Chiến trường Điện Biên Phủ, những năm tới, Mường Phăng sẽ khai thác tối đa nguồn lợi này.
Ông Mùa A Kềnh, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Mường Phăng, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên cho biết: “Chúng tôi sẽ chú trọng phát huy các giá trị của di tích cũng như bảo tồn các điểm di tích để phục vụ du khách tham quan, trải nghiệm, học tập. Trên cơ sở đó, nhân dân trên địa bàn sẽ có cơ hội để phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo từ dịch vụ du lịch.”
Mường Phăng – vùng căn cứ địa hôm nay đang từng bước chuyển mình. Đó là thành quả mà Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Mường Phăng đã đoàn kết, chung tay quyết tâm phấn đấu để đưa một xã khó khăn vùng ngoài lòng chảo ngày càng phát triển, đời sống người dân ấm no hơn, xứng danh với vùng đất lịch sử./.
Thành phố Điện Biên Phủ trên đà phát triển. (Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN)
Di tích đồi A1 năm xưa nay đã được phủ xanh. (Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN)
Các điểm di tích chiến trường xưa trở thành điểm đến du lịch của nhiều du khách. (Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN)
Các lễ hội được phục dựng và gìn giữ phục vụ đời sống tâm linh của người dân. (Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN)
Thế hệ trẻ thắp nến tri ân những Anh hùng đã ngã xuống trên mảnh đất lịch sử. (Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN)
Sân bay Điện Biên Phủ đang được chuẩn bị mở rộng để đón du khách đến với vùng đất lịch sử anh hùng. (Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN)
Phát triển du lịch Homestay đã giúp Điện Biên đang ngày càng đổi thay. (Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN)
Lòng chảo Mường Thanh nổi tiếng với cánh đồng rộng lớn. (Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN)
Niềm vui được mùa trên cánh đồng Mường Thanh. (Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN)
Mô hình trồng rau sạch cung cấp rau cho thị trường trong tỉnh. (Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN)
Một mô hình nuôi thỏ giúp người dân tăng thêm thu nhập cho gia đình. (Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN)
Nâm Nung- Căn cứ địa cách mạng huyền thoại!
Căn cứ địa cách mạng Nâm Nung, nay thuộc xã Nâm Nung, huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông, được coi là một địa danh huyền thoại trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược.
Vượt qua bao nhiêu khó khăn, gian khổ, đồng bào các dân tộc nơi đây đang ra sức xây dựng quê hương cách mạng ngày càng giàu mạnh, cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Địa danh huyền thoại
Căn cứ địa cách mạng huyền thoại Nâm Nung (còn gọi là căn cứ kháng chiến B4 - Liên tỉnh IV) gồm hai địa điểm Bắc Nâm Nung và Nam Nâm Nung thuộc địa bàn huyện Krông Nô và huyện Đắk Glong.
Tượng đài đoàn kết, chiến thắng tại căn cứ địa Cách mạng Nam Nung
Căn cứ kháng chiến Nâm Nung thuộc vùng đất Cao Nguyên có địa hình hiểm trở, nhiều đồi núi, rừng rậm nguyên sinh, với đỉnh cao nhất 1.546m so với mực nước biển, tạo thế liên hoàn theo hướng Đông Nam. Từ Nâm Nung nối liền xã Nâm Xoni (căn cứ vững chắc của huyện Khuyên Đức) nối liền dãy núi Tà Đùng, phía tây dãy Tà Đùng là xã Quảng Khê (huyện Đắk Glong), phía nam là căn cứ kháng chiến của tỉnh Lâm Đồng, tạo thành một địa thế hiểm trở, vững chắc, thuận lợi cho việc xây dựng, đóng quân và bảo toàn lực lượng cách mạng.
Những ngôi trường khang trang, sạch sẽ đảm bảo nhu cầu dạy và học cho đồng bào trong thời kỳ đổi mới
Địa bàn căn cứ Nâm Nung tập trung nhiều dân tộc anh em sinh sống, trong đó dân tộc M'nông chiếm đa số, họ là người bản địa và sống quần tụ lâu đời nhất ở đây.
Năm 1905, thực dân Pháp chính thức bãi bỏ chế độ "Sơn phòng" của triều đình nhà Nguyễn, trực tiếp đảm nhiệm các vấn đề về kinh tế, chính trị và an ninh trên địa bàn lãnh thổ các tỉnh Tây Nguyên.
Dưới những chính sách bóc lột trắng trợn của thực dân Pháp, trên mọi lĩnh vực đã vấp phải sự kháng cự, chống trả quyết liệt của các dân tộc trên toàn miền sơn nguyên. Trước nguy cơ bị cướp đi cuộc sống tự do, độc lập mà tổ tiên gìn giữ các dân tộc tại đây đã lẻ tẻ, hoặc liên minh với nhau chống lại bọn thực dân xâm lược.
Người Phụ nữ M'nông tươi cười bên cánh đồng lúa xanh ngát
Tiêu biểu cho phong trào chống thực dân xâm lược, là cuộc khởi nghĩa do N'Trang Gưh lãnh đạo (1900-1914) và đỉnh cao phong trào chống thực dân Pháp xâm lược của đồng bào M'nông dưới sự lãnh đạo của N'Trang Lơng kéo dài từ (1912-1936).
Từ khi lãnh đạo phong trào chống Pháp N'Trang Lơng đã xây dựng căn cứ địa kháng chiến tại thung lũng rừng già Bu Siết, thuộc núi Nâm Nung. Căn cứ Nâm Nung trở thành nơi tập hợp quân lực, huấn luyện và xây dựng lực lượng vững chắc.
Những cánh đồng lúa xanh mướt, phủ xanh khắp Bon làng
Với phong trào do N'Trang Lơng lãnh đạo đã dành được nhiều chiến thắng vang dội, vì thế quân Pháp đã có âm mưu tập trung lực lượng ra sức tìm kiếm để tiêu diệt bằng được N'Trang Lơng, nhằm dập tắt phong trào đấu tranh chống Pháp.
Tháng 10/1931, quân Pháp tập hợp lực lượng đông đảo nhằm tiêu diệt phong trào do N'Trang Lơng lãnh đạo, trước tình thế bất lợi đó, nhằm bảo toàn lực lượng, nghĩa quân quyết định rút sâu về dãy núi Nâm Nung lập căn cứ. Tại đây, nghĩa quân đã đào hầm chông, giếng chông làm bẫy đá...tạo thành một địa bàn "bất khả xâm phạm".
Không những thế N'Trang Lơng đã kêu gọi đồng bào bản địa cùng tham gia kháng chiến, bỏ làng vào rừng, bất hợp tác với giặc Pháp. Với sự kêu gọi đó đồng bào đã hăng hái tham gia, sẵn sàng bỏ làng, quyên ghóp lương thực, thực phẩm để cùng nghĩa quân chống kẻ thù.
Những cơ sở kinh doanh, buôn bán mọc san sát đang từng bước làm thay đổi cuộc sống nơi vùng đất căn cứ Cách mạng
Sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi vẻ vang, nhân dân Tây Nguyên ngày càng củng cố thêm niềm tin dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Căn cứ huyền thoại Nâm Nung, một lần nữa cùng cả nước tiếp tục cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) và cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược (1954-1975). Với lợi thế về rừng núi hiểm trở, địa bàn Nâm Nung là nơi tiến công, bám ấp, đóng, trú quân an toàn và bí mật. Đồng bào nơi đây một lòng hướng về sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng chiến đấu, sản xuất cung cấp lương thực cho lực lượng quân đội đóng trên địa bàn.
Có thể thấy, địa thế căn cứ kháng chiến Nâm Nung đã đảm bảo hội tụ được các yếu tố "địa lợi và nhân hòa", vững chắc trong bố phòng, thuận lợi trong công tác chỉ đạo tiến công, phát triển chiến tranh nhân dân, là yếu tố mang tính sống còn cho Đảng bộ và nhân dân qua các thời kỳ kháng chiến chống các cường quốc xâm lược.
Nâm Nung vươn mình trong thời kỳ mới
Những ngày đầu tháng 4, dưới tiết trời Tây Nguyên nắng gắt chúng tôi có dịp đặt chân lên mảnh đất sơn nguyên huyền thoại với nhiều câu chuyện khởi sắc về cuộc sống người dân nơi đây trong thời kỳ đổi mới.
Những cánh đồng lúa xanh mướt, căng tràn sức sống đang tô đẹp thêm vùng đất Cách mạng Nâm Nung "huyền thoại".
Cuộc sống kinh tế, xã hội, văn hóa của nhân dân, đồng bào nơi đây ngày càng thay da đổi thịt. Những cánh đồng lúa xanh mướt, nương rẫy cà phê trồng xen lẫn những trụ Tiêu, sầu riêng bạt ngàn phủ xanh khắp một vùng trời cách mạng.
Đón tiếp phóng viên bằng nụ cười nồng hậu, ông Dương Thành Chung, Phó chủ tịch UBND xã Nâm Nung, phấn khởi cho biết, toàn xã hiện có 1907 hộ, với hơn 7935 nhân khẩu, ( trong đó có 428 hộ, với 1917 nhân khẩu là đồng bào M'Nông), thu nhập bình quân đầu người 40 triệu đồng/người. Cuộc sống nhân dân trong xã không ngừng thay đổi, bởi được Đảng nhà nước đặc biệt quan tâm, hỗ trợ.
Hệ thống cơ sở hạ tầng, điện, đường, trường trạm, các đường giao thông liên thôn, bon được trải nhựa, đổ bê tông 100%. "Bên cạnh phát triển kinh tế xã hội, mảng bảo tồn văn hóa, tín ngưỡng của người đồng bào tại chỗ được chính quyền các cấp đặc biệt quan tâm. Văn hóa cồng chiêng, các điệu múa mang bản sắc dân tộc, đan lát thổ cẩm được gìn giữ, có kế hoạch thúc đẩy phát triển để tránh mai một." ông Chung thông tin.
Những ngôi nhà xây mọc lên như nấm, sạch đẹp trên căn cứ Cách mạng Nam Nung
Dẫn chúng tôi tham quan một vòng quanh xã, ông Chung không ngớt lời "khoe" sự ấm cúng, nhộn nhịp về tình hình kinh doanh, buôn bán, đặc biệt về cách làm kinh tế giỏi của các hộ dân đồng bào tại chỗ.
Trao đổi với chúng tôi, ông Trương Văn Hồng, trưởng Bon (Buôn) Jarah, cho biết trong Bon có 182 hộ đồng bào dân tộc tại chỗ (người M'nông), với 789 nhân khẩu. Bon Jarah có 71 hộ gia đình được hưởng chế độ, là Bon trước đây có nhiều người con ưu tú tham gia hoạt động cách mạng. "Cuộc sống đồng bào nơi đây đã có nhiều khởi sắc, ai cũng có cơm ăn áo mặc, kinh tế ngày một khấm khá, nhà xây kiên cố ngày càng nhiều. Đạt được những thành quả như hiện nay là cả sự cố gắng phấn đấu, cống hiến không biết mệt mỏi của Đảng bộ và người dân trong Bon suốt thời gian dài. Đồng bào họ đã thay đổi nhận thức, không còn phát nương làm rẫy, du canh như ngày xưa, mà thay vào đó họ tăng giá sản xuất, trồng nhiều cà phê, cao su...Những ruộng lúa xanh mướt thay cho những cách đồng bỏ hoang hóa, kinh tế vật chất cứ thế từng ngày được nâng lên." Ông Hồng phấn khởi nói,
Chia tay xã Nâm Nung anh hùng, rong xe trên những cung đường bê tông sạch sẽ, chúng tôi không quên ngắm nhìn hai bên đường bạt ngàn cà phê, cây trái, những mái ngói, ngôi nhà khang trang nằm san sát giữa trời chiều cao nguyên gió lộng...
Đất lành Vũng Chùa - Đảo Yến Núi Mũi Rồng, nơi Đại tướng Võ Nguyên Giáp yên nghỉ, thuộc thôn Thọ Sơn, là một dãy núi thuộc hệ Hoành Sơn chạy ra sát biển. Núi có tên Mũi Rồng bởi mõm núi cuối cùng có hai cái hang, mỗi lần sóng biển vỗ vào rút ra, hai cái hang đó lại phun nước, giống hai mũi con rồng. Các bãi...