Vũ khí công nghệ cao trong chiến tranh vùng Vịnh (6)
Trong Chiến tranh vùng Vịnh, Hải quân Mỹ và đồng minh đã bắn 216 tên lửa hành trình Tomahawk tấn công các mục tiêu cố định, giá trị cao Iraq.
Trong Chiến tranh vùng Vịnh, Hải quân Mỹ và đồng minh đã bắn 216 tên lửa hành trình Tomahawk tấn công các mục tiêu cố định, giá trị cao trên lãnh thổ Iraq.
Cuộc chiến tranh vùng Vịnh kéo dài hơn một năm, nhưng lượng tên lửa, bom, đạn… mà cả hai bên tham chiến sử dụng tương đương với trong Chiến tranh thế giới thứ 2. Nhiều loại vũ khí mới được thủ nghiệm ở chiến trường này gây ra những tai họa về môi trường sinh thái không thể thống kê nổi và khó có thể khắc phục trong thời gian ngắn.
Trong thời gian chiến tranh, khoảng một triệu thùng dầu thô đổ ra vịnh Péc-xích, hơn 570 giếng dầu bị đốt cháy làm ô nhiễm nghiêm trọng vùng trời, đất đai, nguồn nước, sinh vật… ở vùng Vịnh cũng như ảnh hưởng xấu tới môi trường sinh thái các khu vực khác.
Kỳ 6: Tên lửa, bom, đạn trong Chiến tranh vùng Vịnh
Dưới đây là một số loại tên lửa, đạn pháo mà các bên tham chiến đã sử dụng:
BGM -109C/D Tomahawk
Tên lửa hành trình chiến lược Tomahawk do hãng Mc.Donnell Douglas và General Dynamics của Mỹ chế tạo, đưa vào trang bị lần đầu năm 1985. Nó được trang bị chủ yếu cho Hải quân Mỹ để tấn công các mục tiêu cố định mặt đất.
Loại tên lửa này dài 6,4m, đường kính 0,53m, sải cánh 2,62m, trọng lượng phóng 3,1 tấn. Tên lửa Tomahawk được trang bị động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đẩy cho tốc độ cận âm 885km/h và có tầm bắn khoảng 2.500km. Đầu đạn của tên lửa là dạng nổ phá, nặng 450kg, có thể mang đạn con hoặc đạn hạt nhân.
Tàu tuần dương Mỹ phóng tên lửa Tomahawk.
Dù tầm bắn xa tới hàng nghìn km, nhưng Tomahawk có độ chính xác tuyệt vời nhờ hệ thống dẫn đường cực kỳ hiện đại
Độ chính xác đến mức “điên rồ” của nó so với các tên lửa hành trình khác được thể hiện qua việc “người điều khiển chỉ cần ở cách mục tiêu hàng nghìn km (thậm chí xa hơn) và nhấn nút, quả lên lửa được phóng đi và chờ, nó sẽ lọt qua cửa sổ và phá hủy mục tiêu”.
Tại cuộc chiến tranh vùng Vịnh, Mỹ và đồng minh đã triển khai khoảng 700 quả tên lửa Tomahawk, bố trí trên hơn 30 tàu mặt nước và tàu ngầm. Trong thực tế, Mỹ đã bắn 216 quả mang đầu đạn thông thường BGM-109C (đạn nổ phá 450kg) và BGM-109D (mang 166 bom con hiệu ứng kết hợp), đặc biệt thích hợp để đánh phá các mục tiêu cố định và quan trọng.
Tên lửa chống hạm SEA SKUA
Tên lửa chống hạm SEA SKUA do hãng British Aerospace của Anh chế tạo với sự phối hợp của hãng Marconi. Loại tên lửa này được đưa vào trang bị từ năm 1983 trong Hải quân Hoàng gia Anh.
Đây là loại tên lửa chống tàu hoạt động trong mọi thời tiết, có thể bay sát mặt biển, chủ yếu trang bị cho các trực thăng hải quân.
Phóng tên lửa Sea Skua từ trực thăng.
Tên lửa nặng 145kg, dài 2,5m, đường kính thân 0,25m, sải cánh 0,72m, tầm bắn 15-18km với đầu nổ phá 20km.
Tại cuộc chiến tranh vùng Vịnh, loại tên lửa này chủ yếu trang bị cho trực thăng Lynx của Hải quân Anh.
Tên lửa chống hạm Harpoon
Hệ thống tên lửa hành trình chống tàu, hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết Harpoon do công ty McDonnell Douglas (nay là Boeing Defense, Space & Security) phát triển và giới thiệu lần đầu từ năm 1977. Tính tới năm 2004 thì Boeing đã chuyển giao cho Quân đội Mỹ và các nước đồng minh khoảng 7.000 quả Harpoon.
Tên lửa diệt hạm Harpoon rời bệ phóng.
Harpoon được phát triển, trang bị cho nhiều nền tảng: máy bay (AGM-84, không có tầng động cơ tăng cường nhiên liệu rắn); tàu chiến mặt nước (RGM-84, lắp tầng đẩy tăng cường); tàu ngầm (UGM-84, lắp tầng đẩy tăng cường và đặt trong container kín nước phóng qua ống phóng ngư lôi cỡ 533mm) và biến thể dùng cho khẩu đội phòng thủ bờ.
Đạn tên lửa tiêu chuẩn Harpoon nặng 691kg (với tầng tăng cường), dài 3,8m (biến thể phóng trên không) hoặc 4,6m (biến thể phóng từ tàu chiến), đường kính thân 0,34m, lắp đầu nổ nặng 221kg.
Tên lửa trang bị động cơ tuốc bin phản lực cho tầm bay 124km, tốc độ bay 864km/h, pha cuối bay ở độ cao cực thấp, dùng đầu tự dẫn radar chủ động.
Đạn pháo thông minh M712 Copperhead
Đạn pháo thông minh M712 Copperhead cỡ 155mm được Martin Maritta phát triển cho Lục quân Mỹ để công phá các mục tiêu giá trị cao, xe tăng, pháo tự hành. Nó có thể bắn từ các loại pháo xe kéo, pháo tự hành cùng cỡ 155mm.
Video đang HOT
Đạn pháo M712 chuẩn bị công phá tăng M41.
M712 được điều khiển giai đoạn cuối bằng đầu tìm laser với thiết bị chiếu mục tiêu bên ngoài (thường là bộ chiếu laser mặt đất AN/TVQ-2, bộ chiếu laser xách tay PAQ-1, môđun laser vạn năng, thiết bị định tầm laser) đặt trên mặt đất, trên xe chiến đấu, máy bay, trực thăng. Ngoài ngòi nổ va đập, đạn còn được trang bị ngòi hẹn nổ và hệ kích nổ bằng cảm biến. Trong thử nghiệm có độ tin cậy tới 92%.
Đạn pháo M712 nặng 63,5kg (phần thuốc nổ 22,5kg), tầm bắn 3-16km.
Tại Chiến tranh vùng Vịnh, loại đạn này được trang bị cho lựu pháo tự hành M109, lựu pháo kéo M198. Quân đội Mỹ thường dùng máy bay trinh sát OV-10 và trực thăng OH-58 để chỉ thị mục tiêu.
Tên lửa không đối không tầm xa AIM-54 Phoenix
AIM-54 là tên lửa không đối không tầm xa do hãng Hughes Aircraft của Mỹ sản xuất và được đưa vào trang bị cho Hải quân Mỹ năm 1971. Trước khi tham chiến ở vùng Vịnh, AIM-54 đã xuất trận ở Libya năm 1986.
Đây được coi là một trong các tên lửa không đối không chính xác, song cũng là loại đắt tiền nhất của Mỹ thời đó, nó có giá bán tới hơn 1 triệu USD/chiếc.
Tên lửa dài 3,96m, đường kính thân 0,38m, sải cánh 0,914m, trọng lượng phóng 447kg. Tên lửa lắp động cơ đẩy thuốc phóng rắn có tầm bắn lên đến 210km.
Loại tên lửa này được điều khiển bằng radar tự dẫn bán chủ động AWG-9 và radar tự dẫn chủ động giai đoạn cuối (khoảng 16km cuối). Đầu đạn là 2 ngòi nổ cận đích Mk334 và hồng ngoại Bendix được nối với nhau bởi thanh nối lớn.
Tại cuộc chiến tranh vùng Vịnh, loại tên lửa này chủ yếu được trang bị cho máy bay tiêm kích hạng nặng F-14 của Hải quân Mỹ.
Tên lửa chống tăng AGM-114A Hellfire
Tên lửa chống tăng AGM-114 Hellfire là loại vũ khí diệt mục tiêu tăng – thiết giáp nổi danh của Mỹ trong nhiều cuộc chiến tranh trở lại đây. Được đưa vào sản xuất từ năm 1974, hàng nghìn quả Hellfrie đã được Lockheed Martin chế tạo cho Quân đội Mỹ và các nước đồng minh Mỹ.
Loại tên lửa này được trang bị cảm biến kết hợp hồng ngoại/vô tuyến và ảnh hồng ngoại hoặc laser bán chủ động cho phép tấn công mục tiêu một cách linh hoạt.
Tại cuộc chiến tranh vùng Vịnh, loại tên lửa này chủ yếu được trang bị cho Lục quân Mỹ.
Hellfire có trọng lượng 45-49kg tùy biến thể, dài 163cm, đường kính thân 17,8cm, lắp đầu nổ kiểu tandem nặng 9kg hoặc nguyên khối nổ phá mảnh 8kg, tầm bắn 500m tới 8km, tốc độ bay 1.591km/h.
Tên lửa chống radar AGM-88A HARM
AGM-88 HARM là loại tên lửa không đối đất chiến thuật được thiết kế để dẫn đến mục tiêu dựa vào phát xạ điện tử kết hợp với hệ dẫn rada của tên lửa không đối đất. Tên lửa này ban đầu được phát triển bởi Texas Instruments (TI) nhằm thay thế cho các thế hệ tên lửa AGM-45 Shrike và AGM-78 Standard.
Nó có thể phát hiện, tấn công và phá hủy một ăng ten rada hoặc một trạm phát. Hệ thống dẫn, hướng đến trạm phát rada của đối phương, có một ăng ten cố định và một bộ tìm kiếm nằm ở phía đầu của tên lửa.
F-16 phóng AGM-88.
Tên lửa dài 4,1m, nặng 360kg, trang bị động cơ đẩy thuốc phóng rắn cho tầm bắn tới 90km, tốc độ 340m/s, dùng đầu tự dẫn radar bán chủ động. Đây là loại vũ khí đặc biệt nguy hiểm với các đài radar cảnh giới, dẫn đường tên lửa của Iraq.
Tại cuộc chiến tranh vùng Vịnh, loại tên lửa này được sử dụng cho nhiều loại máy bay của Mỹ và các nước liên quân, đặc biệt cho máy bay tấn công điện tử F-4G. Chính loại tên lửa này đã góp phần đáng kể vô hiệu hóa mạng radar phòng không Iraq.
Tên lửa hành trình AGM-86A/B1 ALCM
Tên lửa hành trình phóng từ trên không AGM-86 ALCM được Boeing phát triển cho Không quân Mỹ, trang bị từ năm 1982. Nó được thiết kế nhằm tăng hiệu quả, tính sống sót cho máy bay ném bom chiến lược B-52H. Với AGM-86, B-52H có thể đứng ngoài tầm phòng không của đối phương để bắn tên lửa.
Tên lửa hành trình AGM-86.
Hầu hết các biến thể tên lửa hành trình AGM-86 đều được trang bị động cơ tuốc bin phản lực Williams F107 cho tầm bắn 2.400km (biến thể B) hoặc 1.100km (biến thể C), tốc độ bay cận âm 890km/h.
Các tên lửa hành trình có trọng lượng 1,4 tấn, dài 6,3m, lắp đầu đạn hạt nhân hoặc đầu đạn thông thường.
Tại cuộc chiến tranh vùng Vịnh, loại tên lửa này chỉ được phóng đi từ máy bay B-52G/H, nhưng chỉ sử dụng loại tên lửa mang đầu đạn thông thường.
Đại Dương
Theo_Kiến Thức
Vũ khí công nghệ cao trong chiến tranh vùng Vịnh (4)
Trong chiến tranh vùng Vịnh, Hải quân Mỹ bắn tổng cộng 291 tên lửa Tomahawk, thực hiện 28.929 phi vụ từ các tàu sân bay và tàu đổ bộ...
Trong chiến tranh vùng Vịnh, Hải quân Mỹ bắn tổng cộng 291 tên lửa Tomahowk, thực hiện 28.929 phi vụ từ các tàu sân bay và tàu đổ bộ...
Từ tháng 8/1990, Mỹ và liên quân đã phong tỏa chặt đường biển vào Iraq. Trong cả cuộc chiến tranh vùng Vịnh tàn khốc, Hải quân Mỹ đã bắn tổng cộng 291 tên lửa hành trình Tomahawk, 124 tên lửa Walleye, thực hiện 28.929 phi vụ từ các tàu sân bay và tàu đổ bộ.
Nhiều lớp tàu được sử dụng trong chiến đấu, như các tàu tuần dương AEGIS, tàu đổ bộ đệm khí... Đây là lần đầu tiên tàu chiến Mỹ, cả tàu nổi lẫn tàu ngầm được dùng để phóng tên lửa hành trình Tomahawk. Riêng 6 tàu sân bay ở vùng Vịnh của Mỹ đã có số máy bay chiến đấu nhiều gấp rưỡi so với Iraq. Các tàu đổ bộ Mỹ có sàn sân bay khá rộng, cho phép đổ quân bằng trực thăng và đảm bảo chi viện hỏa lực bằng máy bay cất hạ cánh đứng AV-8B.
Ngoài vũ khí tấn công, nhìn chung các tàu chiến của Mỹ và liên quân đều có khả năng phòng thủ hiện đại, với các phương tiện phòng không, chống tên lửa đối hạm và chống ngư lôi, đối phó và chống đối phó điện tử. Các phương tiện chiến tranh điện tử trên hạm tàu nói chung đa dạng, phong phú và được coi là những "bóng ma từ biển"
Kỳ 4: Tàu chiến trong Chiến tranh vùng Vịnh
Dưới đây là một loại tàu chiến của Mỹ và liên quân sử dụng tại Chiến tranh vùng Vịnh.
Tàu sân bay lớp Clemanceau
Tàu sân bay lớp Clemanceau do Pháp chế tạo, gồm 2 chiếc Clemanceau R98 và Foch R99. Chiếc đầu tiên hạ thủy năm 1975, đưa vào trang bị cho hải quân năm 1961. Tàu sân bay Clemanceau được sử dụng để hộ tống lực lượng hải quân của Pháp tới Ả Rập Saudi.
Tàu sân bay Clemanceau chứa được 38 máy bay gồm: 16 cường kích Super Etendard, 3 trinh sát Etendard IVP, 10 Crusder, 7 Alize, 2 trực thăng SA 365F Dauphin 2.
Clemanceau có lượng choán nước 27.307 (tiêu chuẩn) và 32.780 tấn (đủ tải). Tàu dài 265m, rộng 31,7m, cao 8,6m và có tốc độ 32 hải lý/h, tầm hoạt động 7.500 hải lý.
Sàn sân bay bay dài 165,5m, rộng 29,5m được trang bị máy phóng thủy lực hỗ trợ cất cánh cho cường kích Etendard IV. Ngoài ra, trên tàu còn có trực thăng vận tải, chống ngầm.
Về trang bị, Clemanceau có 2 dàn tên lửa phòng không Crotale 36 quả; 4 pháo phòng không/đối hạm DCN 100mm, trọng liên 12,7mm; 2 bộ rải nhiễu tiêu cực/bẫy hồng ngoại 10 nòng, máy thu cảnh giới radar ARBA 51; sô-na SQS 505.
Tàu được biên chế 1.017 người và 672 phi công cùng chuyên môn kỹ thuật không quân.
Tàu sân bay lớp Forrestal (Forrestal CV-59)
Tàu sân bay lớp Forrestal sản xuất năm 1952 tại xưởng đóng tàu Newport News (Mỹ), hạ thủy năm 1954 và đưa vào trang bị 1955. Là tàu sân bay đầu tiên trên thế giới đưa vào sản xuất sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2.
Các loại máy bay trên tàu: 20 tiêm kích F-14, 20 tiêm kích F/A-18, 20 cường kích A-6E, 4 máy bay tấn công điện tử EA-6B, 10 máy bay săn ngầm S-3A/B, 4 máy bay cảnh báo E-2C, 6 trực thăng SH-3H/SH 60F.
Tàu sân bay lớp Forrestal có lượng choán nước 59.060 (tiêu chuẩn) và 79.250 tấn (đủ tải). Tàu dài 331m, rộng 39,6m, cao 11,3m. Tàu được trang bị động cơ 4 tua-bin, công suất 260.000 CV cho tốc độ 33 hải lý/h, tầm hoạt động 4.000 hải lý và 8.000 hải lý.
Tàu được trang bị 3 dàn tên lửa phòng không Sea Sparrow Mk 29 8 ống phóng; 3 pháo phòng không 200mm Vulcan Phalanx. Trên tàu có thể chở tới 80-90 máy bay các loại được hỗ trợ cất cánh bằng máy phóng thủy lực.
Cả 3 tàu sân bay tham chiến ở vùng Vịnh là Forrestal (CV-59), Sarataga (CV-60) và Independence (CV-62). Cả 3 tàu sân bay này đều đều từng tham chiến ở Việt Nam: Independence (1965), Forrestal (1967) và Sarataga (1972). Sarataga bị trúng thủy lôi Iraq và đã loại khỏi trang bị từ năm 1993.
Tàu sân bay lớp Nimitz (CVN-68)
Tàu sân bay Nimitz (CVN-68) sản xuất tại xưởng đóng tàu New port News của Mỹ năm 1968, hạ thủy năm 1972 và đưa vào trang bị năm 1975.
Trong Chiến tranh vùng Vịnh có 2 tàu là Nimitz và Eisenhower thuộc lớp Nimitz tham chiến.
Lớp Nimitz có lượng giãn nước lên tới 100.000 tấn, dài 332,8m, tốc độ 30 hải lý/h, thủy thủ đoàn khoảng 5.000 người (gồm 3.200 thủy thủ và 2.480 thành viên phi hành đoàn), chở tối đa 85-90 máy bay. Đây được xem là tàu sân bay lớn nhất trong lịch sử thế giới.
Tham gia cuộc chiến tranh vùng Vịnh khi đó, tàu sân bay US Nimitz chở theo 20 máy bay tiêm kích F/A-18, 6 máy bay tấn công điện tử EA-6B, 20 cường kích A-6E, 5 máy bay cảnh báo E-2C và 10 máy bay chống ngầm S-3A Viking.
4. Tuần dương hạm Ticonderoga
Tuần dương hạm Ticonderoga là lớp tàu chiến tên lửa chủ lực của Hải quân Mỹ được khởi đóng giai đoạn 1980-1994 với tổng số 22 chiếc. Đây được xem là một trong những tàu chiến mạnh nhất của Hải quân Mỹ, mang trên nó kho vũ khí khổng lồ đủ sức quét sạch kẻ địch trên bộ, trên biển, trên không.
Trong chiến tranh Vùng vịnh, Hải quân Mỹ đã triển khai tổng cộng 8 chiếc lớp Ticonderoga gồm: Ticonderoga CG-47; Thomas S.Gates CG-51; Bunker Hill CG-52; Mobile Bay CG-53; Antietam CG-54; San Jacinto CG-56; Philippin Sea CG-58 và Princeton CG-59.
Trong ảnh là tàu tuần dương Ticonderoga CG-47 được trang bị kiểu bệ phóng Mk26 để bắn tên lửa phòng không SM-2 thay vì dùng bệ Mk41.
Điểm nhấn trên các tàu tuần dương lớp Ticonderoga là việc trang bị hệ thống chiến đấu Aegis với radar mạng pha chủ động đa năng AN/SPY-1 có khả năng phát hiện mọi mục tiêu đường không.
Con tàu sở hữu kho vũ khí khổng lồ gồm tên lửa phòng không, tên lửa chống hạm, tên lửa chống ngầm, pháo các loại.
Trong số 8 tàu tham gia chiến dịch không kích Iraq, 2 chiếc CG-47 và CG-51 được trang bị kiểu bệ phóng Mk 26 với 68 tên lửa phòng không SM-2. Trong khi các chiếc còn lại trang bị bệ phóng đứng Mk 41 với 122 tên lửa các loại gồm cả tên lửa hành trình Tomahawk. Vũ khí còn lại của các tàu ngày hôm 8 tên lửa hành trình Harpoon, 2 pháo hạm 127mm, pháo phòng không và ngư lôi chống ngầm.
Lớp tàu tuần dương Ticonderoga có lượng giãn nước khoảng 9.800 tấn, dài 173m, rộng 16,8m, thủy thủ đoàn 340 người.
Tàu tuần dương hạt nhân lớp Viginia (CGN-38)
Tàu tuần dương hạt nhân lớp Virginia là một trong số ít tàu chiến tên lửa chạy bằng năng lượng hạt nhân trên thế giới. Tổng cộng có 4 tàu được chế tạo cho Hải quân Mỹ trong giai đoạn 1972-1980 với các nhiệm vụ đa dạng gồm phòng không, chống ngầm, chống hạm và pháo kích bờ biển đối phương.
Nhờ động lực hạt nhân với 2 lò phản ứng D2G cung cấp năng lượng hoạt động không giới hạn, lớp Virginia được xem là "người hộ tống" tuyệt vời cho các tàu sân bay hạt nhân của Hải quân Mỹ.
Lớp tàu này có lượng giãn nước toàn tải 11.666 tấn, dài tổng thể 179m, thủy thủ đoàn 540 người. Trên tàu được trang bị nhiều hệ thống cảnh giới đường không, mặt nước, điều khiển hỏa lực rất mạnh mẽ.
Về hỏa lực, các tàu này được trang bị 2 bệ phóng Mk 26 với 68 quả tên lửa phòng không tầm xa SM-2 và tên lửa chống ngầm RUR-5. Ngoài ra, tàu còn được trang bị 8 tên lửa hành trình Tomahawk và 8 tên lửa diệt hạm Harpoon cùng các loại vũ khí phụ khác.
Tàu đổ bộ xung kích lớp Tarawa
Ngoài các tàu chiến đấu tên lửa, tàu sân bay, tham gia cuộc chiến tranh vùng Vịnh, Hải quân Mỹ còn điều động 2 tàu đổ bộ USS Tarawa (LHA-1) và USS Nassau (LHA-4). Chúng thuộc lớp tàu đổ bộ tấn công có khả năng mang trực thăng lớp Tarawa được đóng từ 1971-1980 với số lượng 5 chiếc dành cho lực lượng Thủy quân Lục chiến Mỹ.
Lớp tàu có lượng giãn nước toàn tải tới gần 40.000 tấn, dài 254m, rộng 40,2m, thủy thủ đoàn 874 người. Tàu được trang bị 2 nồi hơi cùng 2 tuốc bin khí, 2 chân vịt cho tốc độ tối đa 44km/h, tầm hoạt động 19.000km với tốc độ kinh tế.
Trong ảnh là một trong các tàu đổ bộ lớp Tarawa với giàn trực thăng CH-46 trên boong.
Phục vụ cho các chiến dịch đổ bộ đánh chiếm bờ biển hoặc tấn công vào nội địa đối phương, trên tàu có thể chở 4 tàu đổ bộ nhỏ LCU 1610 hoặc 17 tàu đổ bộ LCM-6 hoặc 45 xe đổ bộ LVT cùng 1.703 lính thủy.
Ngoài ra, nhờ được thiết kế sàn boong lớn cho phép lính thủy đổ bộ đường không với 19 trực thăng vận tải CH-53 và 46 chiếc trực thăng CH-46. Đó là chưa kể, các lính thủy sẽ nhận được sử hỗ trợ từ tiêm kích cất hạ cánh thẳng đứng Harrier.
7. Louisville SSN 724
Cùng tham gia cuộc không kích bằng tên lửa hành trình Tomahawk cùng các tàu tuần dương tên lửa vào mục tiêu quân sự Iraq là tàu ngầm USS Louisville (SSN-724). Đây là một trong số các tàu ngầm hạt nhân tấn công lớp Los Angeles nổi tiếng của Mỹ, được chế tạo trong giai đoạn 1972-1996 với tổng cộng 62 chiếc (hiện còn 40 chiếc hoạt động).
Tại vùng Vịnh, Loussville là tàu ngầm đã phóng tên lửa Tomahawk từ biển Đỏ vào Iraq.
Lớp Los Angeles có lượng giãn nước toàn tải khi lặn 6.927 tấn, dài 110m, rộng 10m, thủy thủ đoàn 129 người. Tàu được trang bị một lò phản ứng hạt nhân PWR S6G cho phép tàu đi tới bất cứ đâu trên thế giới, lặn sâu 29m, tốc độ khi lặn 37km/h.
Ngoài khả năng chống ngầm mạnh với hệ thống định vị thủy âm tiên tiến cùng ngư lôi 533mm Mk48 thì tàu ngầm lớp Los Angeles có khả năng tiến công mặt đất bằng tên lửa hành trình Tomahawk phóng từ các bệ thẳng đứng.
Đại Dương
Theo_Kiến Thức
Vũ khí công nghệ cao trong chiến tranh vùng Vịnh (3) Theo thống kê, trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh, Mỹ và các nước đồng minh bắn hơn 10.000 đạn pháo, rocket các loại vào mục tiêu Quân đội Iraq. Theo thống kê, trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh, Mỹ và các nước đồng minh bắn hơn 10.000 đạn pháo, rocket các loại vào mục tiêu Quân đội Iraq. Trong Chiến tranh vùng Vịnh,...