Vụ bãi Tư Chính: Trung Quốc tái diễn yêu sách đường chín đoạn
Nếu các quốc gia trong khu vực không lên tiếng phản đối Trung Quốc, sự im lặng sẽ góp phần hợp thức hóa chiến lược độc chiếm biển Đông của Bắc Kinh.
Vừa qua, nhóm tàu địa chất Hải dương 8 của Trung Quốc (TQ) đã có tổ chức các hoạt động thăm dò địa chất trái phép gần khu vực bãi Tư Chính – Vũng Mây nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam (VN).
“Đường chín đoạn” quay trở lại
Chuyên gia Swee Lean Collin Koh, thuộc Học viện Chiến lược và quốc phòng (Singapore) viết trên trang Maritimeissues rằng các động thái gần đây chứng tỏ phán quyết của Tòa Trọng tài thường trực (PCA) năm 2016 đã không tạo đủ sức ép để buộc Bắc Kinh phải từ bỏ các toan tính ở biển Đông.
“Theo quan điểm của TQ, bất kỳ hoạt động khai thác và thăm dò dầu khí nào trong khu vực thuộc yêu sách “đường chín đoạn” đều bị xem là vi phạm pháp luật do các vùng biển đó là vùng biển đang tranh chấp, mặc cho yêu sách này đã bị bác bỏ” – ông Collin Koh giải thích.
Qua đó TQ đang muốn biến các động thái đe dọa của mình thành các phản ứng “chính đáng” trước sự “gây hấn” từ bên ngoài mà ở đây là các hoạt động thăm dò tài nguyên của các nước khác như Malaysia, VN. Bằng việc gửi tàu đến khu vực gần bãi Tư Chính, Bắc Kinh muốn phát đi thông điệp: Nếu TQ không được phép khai thác tài nguyên ở đây, các nước khác cũng phải chịu như vậy.
Ngoài ra, sự kiện ở bãi Tư Chính cũng cho thấy quy mô phát triển hiện tại của các công trình quân sự mà TQ xây dựng trái phép trên các thực thể bị chiếm đóng. Các tàu hải cảnh và dân quân biển nhờ các công trình này có thể duy trì sự hiện diện trên vùng biển của VN trong nhiều ngày mà không cần phải quay về những căn cứ ở đại lục.
Tàu chiến Mỹ, Philippines, Ấn Độ và Nhật Bản ở biển Đông khi đang tham gia tập trận chung bốn nước hồi tháng 5-2019. Ảnh: AP
TQ đang toan tính gì?
Theo quan sát của ông Collin Koh, trong giới lãnh đạo Bắc Kinh hiện tồn tại nhiều yếu tố địa lý lẫn chính trị tạo điều kiện để nước này tiến hành các động thái bắt nạt và đe dọa ở biển Đông.
Thứ nhất, các tiền đồn xây dựng trái phép ở quần đảo Hoàng Sa giúp TQ thực hiện các hành vi gây hấn. Thứ hai, TQ khăng khăng bám lấy quan điểm nước này chỉ phản ứng trước các hành động của nước khác chứ không hề có ý khiêu khích. Thậm chí Bắc Kinh còn tố ngược lại chính các nước lên án hành vi của TQ là bên phá hoại tiến trình hòa bình ở biển Đông. Thứ ba, TQ cho rằng các quốc gia trong khu vực sẽ không lên tiếng phản đối do lo ngại “rút dây động rừng”, đặc biệt là khi khối ASEAN và TQ được cho là đang có những bước tiến đáng kể trong việc đàm phán thông qua Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC).
Video đang HOT
Dù vậy, kế hoạch của TQ có nguy cơ thất bại khi gặp phải sự phản đối kịch liệt từ phía VN. Tuy nhiên, chuyên gia Collin Koh không nghĩ rằng Bắc Kinh sẽ vì thế mà buộc phải thay đổi chiến thuật, ít nhất là cho tới khi nước này có giải pháp “giữ thể diện” quốc gia.
Cần nhiều tiếng nói từ cộng đồng quốc tế
Trong tuyên bố ngày 17-7, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao VN Lê Thị Thu Hằng khẳng định việc duy trì trật tự hòa bình, an ninh ở khu vực biển Đông là lợi ích chung của các nước trong và ngoài khu vực cũng như cộng đồng quốc tế. Do đó, VN mong muốn các nước liên quan và cộng đồng quốc tế cùng nỗ lực đóng góp nhằm bảo vệ và duy trì lợi ích chung này.
“Nhận định trên (của VN) rất quan trọng. Nó cho thấy VN muốn kêu gọi sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế đối với sự kiện ở bãi Tư Chính. Động thái này có khả năng sẽ làm ảnh hưởng toàn bộ đến tình hình tranh chấp ở toàn bộ biển Đông và đi ngược với quan điểm không muốn ảnh hưởng từ bên ngoài của Bắc Kinh” – ông Collin Koh giải thích.
Theo đó, bất kỳ động thái nào làm xấu đi căng thẳng ở bãi Tư Chính cũng sẽ thu hút chú ý hoặc chỉ trích từ cộng đồng quốc tế, trong đó có các nước như Mỹ đang thực hiện các chiến dịch tự do hàng hải ở biển Đông. Điều này sẽ khiến TQ phải suy nghĩ kỹ nếu còn muốn tiến hành thêm bất kỳ hành động nào ở vùng biển của VN.
Tuy nhiên, chỉ tuyên bố từ phía VN sẽ chưa đủ sức buộc TQ phải rút tàu ra khỏi bãi Tư Chính. Ông Collin Koh cho rằng việc này đòi hỏi phải có một lập trường rõ ràng và dứt khoát phản đối hành động của TQ đến từ các nước ASEAN. Các lãnh đạo của khối này cần phải lên tiếng cảnh báo mọi hành vi đe dọa như những gì xảy ra ở bãi Tư Chính sẽ đi ngược lại với luật pháp quốc tế, đồng thời phá hoại thành quả đàm phán COC của ASEAN và TQ trong hai năm qua.
“Đã đến lúc cộng đồng thế giới và khối ASEAN phải nhận ra rằng việc cố gắng làm hòa với TQ về vấn đề biển Đông đã không đem lại kết quả gì. Một bên TQ dùng biện pháp ngoại giao như trong đàm phán COC, mặt khác nước này sử dụng các chiến thuật đe dọa để đạt được mục tiêu của mình, bất chấp quyền lợi của nước khác” – ông Collin Koh khẳng định.
Việc im lặng trước các động thái của Bắc Kinh sẽ “hợp thức hóa” hành động đe dọa mà nước này đang tiến hành ở biển Đông. Về lâu dài, hệ lụy của nó sẽ làm kéo theo các nước khác đi theo con đường của TQ, biến cái bất thường thành điều bình thường trong khu vực.
Chuyên gia SWEE LEAN COLLIN KOH thuộc Học viện Chiến lược và quốc phòng Singapore.
Theo Vĩ Cường (Pháp luật TPHCM)
Chặn sự bành trướng của Trung Quốc, quyết bảo vệ chủ quyền
Yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam; tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực
Thực hiện chiến lược độc chiếm biển Đông, dùng biển Đông làm bàn đạp vươn lên vị trí siêu cường quốc tế trong cuộc cạnh tranh địa - chính trị, địa - kinh tế, địa - chiến lược với Mỹ tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Trung Quốc đã và đang lợi dụng mọi thời cơ, tận dụng mọi lợi thế về quân sự, kinh tế, kỹ thuật, tài chính... để bành trướng ở biển Đông.
Gặm nhấm biển Đông
Bằng vũ lực, Trung Quốc đã đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1956, 1974 và một phần quần đảo Trường Sa năm 1988. Tiếp đến, từ sau năm 1988, Trung Quốc, một mặt tiến hành đào bới, san lấp, xây dựng, biến 6 thực thể địa lý ở phía Tây Bắc quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà họ vừa đánh chiếm năm 1988 thành các đảo nhân tạo rất lớn đủ để xây dựng và bố trí các thiết bị quân sự hải, lục, không quân hiện đại. Mặt khác, họ tiếp tục triển khai chiến thuật gặm nhấm đối với các thực thể địa lý là những bãi ngầm, rạn san hô nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa hợp pháp của các quốc gia ven biển Đông để trước mắt muốn thực hiện thủ thuật "biến không thành có", "biến vùng không tranh chấp thành vùng tranh chấp", như những gì đã xảy ra ở Đá Vành Khăn năm 1995, bãi cạn Scarborough 2012, Bãi Cỏ Mây...
Đáng chú ý là Bắc Kinh đã và đang mở rộng hoạt động phi pháp này bằng cách huy động lực lượng tàu thuyền đến hoạt động tại khu vực bãi cạn James cách bờ biển Malaysia chỉ 80 km, Bãi Cỏ Rong ở phía Đông quần đảo Trường Sa, cách Philippines dưới 200 hải lý.
Gần đây nhất, theo thông tin chính thức của Việt Nam ngày 19-7, khi trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị bình luận về diễn biến ở khu vực biển Đông, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã tố cáo hoạt động của nhóm tàu Hải Dương 8 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam mà không được phép là phi pháp, vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam theo quy định của UNCLOS 1982 và Luật Biển Việt Nam 2012. Cụ thể là quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế; quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình; nghiên cứu khoa học về biển; bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; các quyền và các nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
Tàu cảnh sát biển Việt Nam đang làm nhiệm vụ trên biển Ảnh: CẢNH SÁT BIỂN VIỆT NAM
Bình tĩnh và kiên quyết
Các quốc gia khác, có biển và không có biển, có 3 quyền khi đi vào vùng 200 hải lý thuộc EEZ (vùng đặc quyền kinh tế) và thềm lục địa của quốc gia ven biển, bao gồm: quyền tự do hàng hải, hàng không, quyền tự do đặt dây cáp, ống dẫn dầu ở đáy biển của vùng thềm lục địa. Tuy nhiên, nếu các quốc gia thực hiện những quyền này mà ảnh hưởng đến các hoạt động thăm dò khai thác, kinh tế hoặc nghiên cứu khoa học của quốc gia ven biển thì phải được sự cho phép của quốc gia ven biển. Nếu không được phép là vi phạm EEZ và thềm lục địa của quốc gia ven biển.
Hơn nữa, xin lưu ý rằng theo UNCLOS 1982, việc phát hiện và xử lý các sai phạm có khả năng xảy ra hay đã xảy ra trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, các lực lượng chấp pháp trên biển của quốc gia ven biển cũng phải tuân thủ các thủ tục pháp lý chặt chẽ, không được phép xử lý một cách tùy tiện, đặc biệt là hạn chế hoặc thậm chí nghiêm cấm việc sử dụng các biện pháp bằng sức mạnh để cưỡng bức, không qua xét xử của các cơ quan tư pháp... Chẳng hạn, điều 73, UNCLOS 1982, quy định:
- Trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có thể thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật và quy định mà mình đã ban hành theo đúng công ước.
- Khi có một sự bảo lãnh hay một bảo đảm đầy đủ khác thì cần thả ngay chiếc tàu bị bắt và trả tự do ngay cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu này.
- Các chế tài do quốc gia ven biển trù định đối với những vụ vi phạm các luật và quy định về mặt đánh bắt trong vùng đặc quyền về kinh tế không được bao gồm hình phạt tống giam, trừ khi các quốc gia hữu quan có thỏa thuận khác và không bao gồm một hình phạt thân thể nào khác.
- Trong trường hợp bắt hay giữ một tàu thuyền nước ngoài, quốc gia ven biển thông báo ngay cho quốc gia mà tàu mang cờ biết, bằng các con đường thích hợp, các biện pháp được áp dụng cũng như các chế tài có thể sẽ được tuyên bố sau đó.
Như vậy, có thể thấy rằng khi áp dụng các biện pháp đấu tranh tại hiện trường xảy ra vụ việc để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trên biển, các lực lượng chấp pháp của Việt Nam phải thận trọng và phải cân nhắc kỹ trước khi áp dụng một biện pháp nào đó, chứ không thể xử lý theo cảm xúc, chủ quan, chưa kể nếu không cẩn thận, có thể bị mắc bẫy của đối phương khi họ kiếm cớ để gây khủng hoảng dẫn tới đụng độ, nhằm nhanh chóng rút ngắn thời gian thực hiện mục tiêu chiến lược của họ.
Trung Quốc xem bãi Tư Chính là một phần của quần đảo Nam Sa thuộc "chủ quyền bất khả xâm phạm" của Trung Quốc. Nhưng lập luận ngụy biện này hoàn toàn trái ngược với những quy định của UNCLOS 1982, đặc biệt là đã bị phán quyết của Tòa Trọng tài quốc tế La Haye năm 2016 bác bỏ.
-------------------------------------
Đấu tranh ngoại giao, pháp lý cao hơn
Dư luận trong nước và quốc tế đánh giá cao nội dung có liên quan đến biện pháp đấu tranh ngoại giao và phương thức ứng xử trên thực tế của các lực lượng chấp pháp của Việt Nam khi phát hiện những hoạt động phi pháp của nhóm tàu Hải Dương 8.
Về đấu tranh ngoại giao, Việt Nam đã tiếp xúc nhiều lần với phía Trung Quốc ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam; tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực.
Căn cứ vào tính chất, mức độ và phạm vi xảy ra vi phạm và xuất phát từ thiện chí, tinh thần trách nhiệm của Việt Nam trước cộng đồng khu vực và quốc tế, cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam đã cân nhắc một cách thận trọng trước khi áp dụng những hình thức đấu tranh chính trị, pháp lý thích hợp, khá mạnh mẽ và đúng thủ tục pháp lý hiện hành. Thực hiện chủ trương giải quyết hòa bình mọi tranh chấp trên biển, tôi tin rằng Việt Nam sẽ còn áp dụng hình thức và mức độ đấu tranh ngoại giao, pháp lý cao hơn, không loại trừ khả năng đưa vụ việc này lên các tổ chức quốc tế và các cơ quan tài phán quốc tế xem xét giải quyết. Nội dung các văn kiện ngoại giao, theo tôi, cũng đã phản ánh đầy đủ lập trường nói trên của Việt Nam. Tuy nhiên, có thể vì lý do nào đó, chúng không nhất thiết phải được công bố công khai. Đó là một thực tế thông thường trong cách ứng xử giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Dù công bố hay không, giá trị pháp lý vẫn không thay đổi.
Về những động thái ứng xử của các lực lượng chấp pháp tại hiện trường, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã cho biết: "Các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam tiếp tục triển khai nhiều biện pháp phù hợp thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán một cách hòa bình, đúng pháp luật nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam".
Tiến sĩ Trần Công Trục
Theo PV (Người lao động)
Trung Quốc cố ý gây sự và bất chấp luật pháp quốc tế trên Biển Đông Từ đầu tháng 7 đến nay, Trung Quốc lại gây chuyện ở khu vực Biển Đông khiến Việt Nam và thế giới phải lên tiếng thể hiện thái độ phản đối mạnh mẽ và kiên quyết đòi phía Trung Quốc chấm dứt ngay những hành động đó. Bởi chúng không chỉ vi phạm trắng trợn và nghiêm trọng luật pháp quốc tế mà...