VN-Index đối diện nguy cơ tăng trưởng âm
Rất có thể năm 2018 sẽ là năm VN-Index có diễn biến đi ngược xu thế tăng mà chỉ số này đã thiết lập trong 5 năm liền, kể từ năm 2012. Thị trường năm 2018 như vậy sẽ tương đồng với năm 2011, năm được cho là đáy khó khăn của kinh tế Việt Nam, khi VN-Index rớt xuống mốc 351 điểm, giảm 27,5% trong năm này.
Ảnh Shutterstock.
Nhìn lại các kịch bản lạc quan…
Lạc quan nhất thị trường chứng khoán Việt Nam có lẽ là ông Trịnh Văn Quyết, Chủ tịch Tập đoàn FLC khi vào cuối năm 2017, ông từng công khai dự báo rằng, VN-Index năm 2018 có thể lên tới 2.000 điểm trên cơ sở tin tưởng vào triển vọng vĩ mô của nền kinh tế.
Ở mức thận trọng hơn, nhiều công ty chứng khoán cũng đã công khai dự báo VN-Index sẽ đạt 1.200 điểm (MBS), thậm chí 1.300 điểm (Công ty Chứng khoán Maybank KimEng) vào cuối năm 2018.
Nhiều thành viên thị trường đã công khai nhận định thị trường chứng khoán năm nay sẽ tiếp tục duy trì đà tăng và điều này cũng là có cơ sở nếu nhìn vào bức tranh vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam với GDP giữ được đà tăng trưởng cao trong các quý vừa qua.
Tuy nhiên, vào tuần cuối của tháng 11, chỉ số chứng khoán Việt Nam đang có xu hướng đi chệch quỹ đạo tăng trưởng. Dao động quanh 910 – 920 điểm hiện nay, VN-Index đang có mức tăng trưởng âm 6 – 7% so với mốc chốt của chỉ số này cuối năm 2017 (984 điểm). Nhiều cổ phiếu lớn đã không tăng, thậm chí không giữ được giá như dự tính ban đầu.
Trong báo cáo thường niên 2017, Công ty Chứng khoán Sài Gòn không đưa ra nhận định cụ thể về đích đến của VN-Index cuối năm 2018, nhưng công bố mức giá kỳ thời gian 1 năm của nhiều cổ phiếu có vốn hóa lớn với nhận định chung rằng, năm 2018, hoạt động huy động vốn qua thị trường chứng khoán cũng như quy mô vốn hóa thị trường sẽ tăng mạnh
Tuy nhiên, thực tế diễn ra không giống như kỳ vọng. Chẳng hạn, SSI dự báo giá mục tiêu của ACB là 42.200 đồng/cổ phiếu, nhưng hiện tại, thị giá ACB chỉ có 29.000 đồng/cổ phiếu; giá cổ phiếu MWG kỳ vọng 162.000 đồng/cổ phiếu, nhưng hiện tại chỉ có 84.000 đồng/cổ phiếu (sau khi chia cổ tức bằng cổ phiếu với tỷ lệ 3:1); giá MBB dự báo 29.500 đồng/cổ phiếu, nhưng hiện tại chỉ còn 20.800 đồng/cổ phiếu; giá cổ phiếu PLX dự báo 89.200 đồng/cổ phiếu, nhưng hiện là 58.000 đồng/cổ phiếu…
Nhìn chung, nhiều cổ phiếu nhóm ngành ngân hàng, chứng khoán… đang ghi nhận mức giảm khá mạnh so với thời điểm đầu năm.
Còn hơn 1 tháng giao dịch nữa TTCK Việt Nam sẽ chốt đích 2018. Trên nền một thị trường đa dạng về hàng hóa và lớn về quy mô, liệu dòng tiền tháng cuối có chọn chảy mạnh vào chứng khoán để đưa thị trường chứng khoán trở lại quỹ đạo tăng trưởng như 5 năm trước?
Video đang HOT
Tăng trưởng chỉ số vn-index từ năm 2010 đến nay.
Đây là điều nhiều chủ thể mong đợi, nhưng không ai dám chắc câu trả lời.
Nếu Index tăng trưởng âm năm 2018…
Nếu vậy, sẽ không chỉ khiến các nhà đầu tư, khối doanh nghiệp, nhất là khối doanh nghiệp có hoạt động đầu tư tài chính kém vui, mà còn làm khó cho ngành chứng khoán trong báo cáo tổng kết thị trường năm nay, nhất là khi đặt thị trường chứng khoán trong bối cảnh kinh tế vĩ mô Việt Nam tăng trưởng cao hơn năm ngoái.
Giữa tháng 10/2018, khi VN-Index có phiên giảm mạnh 4,85% về 945 điểm, trong báo cáo gửi Bộ Tài chính để báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình thị trường chứng khoán, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước lý giải, nguyên nhân chủ yếu do nhà đầu tư bị ảnh hưởng cộng dồn từ những biến động của thị trường tài chính quốc tế.
Lợi suất trái phiếu Mỹ tăng cao đã hút một lượng tiền không nhỏ từ các thị trường cận biên và mới nổi về Mỹ. Lo ngại về sự giảm tốc của kinh tế toàn cầu gia tăng khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu lần đầu tiên trong 5 năm; căng thẳng thương mại giữa Mỹ và các đối tác thương mại bắt đầu ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế của cả thế giới…
Cùng với đó, xu hướng thắt chặt tiền tệ của một số ngân hàng trung ương các nước vẫn tiếp diễn khiến đồng tiền của các nước mới nổi mất giá mạnh. Thực tế này khiến không chỉ thị trường chứng khoán Việt Nam, mà nhiều thị trường chứng khoán lớn trên thế giới cũng mất điểm, có thể về đích với tăng trưởng âm năm nay.
Trong cuộc trao đổi với các doanh nghiệp vào trung tuần tháng 11 vừa qua, TS. Vũ Bằng, nguyên Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chia sẻ, dòng vốn và các thị trường mới nổi đang quay trở lại Mỹ và Nhật khá mạnh. Trong 7 nước ASEAN, dòng vốn nước ngoài rút ra gián tiếp vào khoảng 37 tỷ USD, cùng với đó thị trường chứng khoán Trung Quốc có biến động rất lớn, chỉ số mất giá 21%.
Theo ông Bằng, cuộc khủng hoảng châu Á trước đây cho thấy, nguyên nhân không phải do nền kinh tế các quốc gia suy yếu, mà là do các trung tâm tài chính vào chu kỳ hút hay đẩy vốn. Khi họ hút vốn, dòng vốn dịch chuyển, tác động mạnh đến kinh tế vĩ mô, ngoại tệ, tỷ giá và sự ổn định của nhiều nền kinh tế.
Trở lại với câu chuyện thị trường chứng khoán Việt Nam, với GDP 2018 dự kiến về đích tăng trưởng 6,88%, về lý thuyết, VN-Index không thể suy giảm vì câu chuyện chung của nền kinh tế nội địa. Phải chăng chỉ số chứng khoán trong nước cũng đang bị ảnh hưởng từ việc một số trung tâm tài chính (cá mập) hút vốn thông qua những cuộc bán – mua nghìn tỷ? Báo Đầu tư Chứng khoán sẽ tiếp tục đi tìm câu trả lời trong các số báo tới.
Tường Vi
Theo tinnhanhchungkhoan.vn
Kinh tế thế giới 2019 sẽ chững lại
Trung Quốc trước nguy cơ khủng hoảng nợ nước ngoài thanh toán bằng đô la Mỹ.
Theo ý kiến của Patrick Artus, kinh tế trưởng và thành viên Hội đồng Điều hành Ngân hàng Tài chính Natixis của Pháp, đăng trên báo Les Echos , gần như chắc chắn kinh tế thế giới sẽ chững lại vào năm 2019. Có nhiều lý do. Trước tiên, nước Mỹ đã đạt tình trạng việc làm tốt nhất với tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất (dưới 4%). Khi người Mỹ đã có đầy đủ việc làm, thì việc tạo công ăn việc làm cũng như tăng trưởng giảm đi.
Kinh tế thế giới suy thoái, thậm chí khủng hoảng?
Trong khu vực đồng Euro, mặc dù tỷ lệ thất nghiệp vẫn rất cao, nhưng các doanh nghiệp lại gặp khó khăn trong việc tuyển người, điều này sẽ kìm hãm việc tạo việc làm cũng như hoạt động sản xuất. Hơn nữa, việc giá dầu có thể tiếp tục tăng tác động tiêu cực tới nhu cầu nội địa do sức mua của người làm công ăn lương giảm.
Các nước mới nổi từ đầu năm 2018 cũng gặp tình trạng vốn (tư bản) "đội nón ra đi" do các nhà đầu tư chuyển hướng sang Mỹ. Điều này làm suy yếu nền kinh tế các nước này với việc đồng tiền của họ mất giá và lạm phát tăng cao làm giảm sức mua của người tiêu dùng.
Cuối cùng, Trung Quốc đã bão hòa về nhu cầu hàng hóa có giá trị sử dụng lâu dài sau một thời gian tăng trưởng mạnh. Hiện nay, tại Trung Quốc, việc mua xe hơi, đầu tư của các doanh nghiệp, tiêu dùng cũng như xây dựng nhà ở đều đã ngừng trệ.
Khoản nợ nước ngoài thanh toán bằng USD ngày càng lớn của Trung Quốc đang bị đánh giá thấp có thể gây ra cuộc khủng hoảng tài chính lớn.
Theo Patrick Artus, điều chưa chắc chắn, đó là tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ chững lại, nhưng năm 2019 sẽ là sự chuyển tiếp từ tăng trưởng cao sang tăng trưởng vừa nhưng ổn định ("hạ cánh mềm") hay sẽ là suy thoái, thậm chí khủng hoảng?
Trong quá khứ, chưa bao giờ có tình trạng hạ cánh mềm (soft landing). Khi tỷ lệ thất nghiệp trở về mức thấp thì ngay sau đó là suy thoái. Ngày nay, chúng ta có thể tránh được tình trạng này không?
Cần phải xem xét điều gì đã kéo theo suy thái và khủng hoảng trong quá khứ:
Trước tiên đó là lạm phát và tăng lãi suất. Nhưng hiện nay lạm phát tại Mỹ ở mức thấp, tại khu vực đồng Euro và NDT cũng ở mức tăng yếu. Thậm chí nếu Cục Dự trữ liên bang Mỹ muốn bình thường hóa chính sách tiền tệ với lạm phát thấp, thì lãi suất cũng sẽ không quá cao. Do vậy khó có khả năng lãi suất tăng dẫn đến khủng hoảng toàn cầu.
Kinh tế thế giới 2019: Tín hiệu nóng về thị trường mới nổi
Các thủ lĩnh kinh tế thế giới giục Mỹ, Trung hạ nhiệt
Tiếp đến là tình hình tại các nền kinh tế mới nổi: đối diện với tình trạng vốn "đội nón ra đi", các nước này ở trong tình trạng thâm hụt thương mại cao (Argentina, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Nam Phi, Indonesia...), đang rất khó khăn. Nhưng nếu tính đến sức nặng kinh tế của những nước này, thì những điều phiền muộn của họ cũng khó có thể làm nổ ra khủng hoảng toàn cầu.
Cuối cùng là vấn đề nợ và giá cổ phiếu. Trong các nước OECD, nợ tư đã giảm từ 10 năm nay, nhưng nợ công đã tăng nhiều. Tuy nhiên, khủng hoảng nợ công chỉ có thể xảy ra khi lãi suất tăng quá cao và các ngân hàng trung ương chấp nhận khủng hoảng. Đây là điều rất khó xảy ra.
Có thể thị trường chứng khoán thế giới sẽ sụt giảm mạnh xuất phát từ Mỹ như đã từng xảy ra thời kỳ suy thoái 2000 - 2001. Dường như sự mất cân bằng tài chính lớn nhất là liên quan tới thị trường chứng khoán ở Mỹ nơi mà chắc chắn cổ phiếu của các doanh nghiệp công nghệ là bong bóng.
Trung Quốc đứng trước cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài bằng đô la Mỹ
Theo Kevin Lai, chuyên gia kinh tế trưởng phụ trách châu Á tại Ngân hàng và môi giới chứng khoán Daiwa Capital Markets của Nhật Bản, từ lâu, nợ nội bộ lớn trở thành nỗi đau đầu của Bắc Kinh, nhưng chính khoản nợ nước ngoài thanh toán bằng USD ngày càng lớn của Trung Quốc đang bị đánh giá thấp có thể gây ra cuộc khủng hoảng tài chính lớn.
Khoản nợ 3 nghìn tỷ USD làm cho Trung Quốc đặc biệt dễ bị tổn thương, vì tính thanh khoản của USD bị siết chặt, NDT yếu và chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đang diễn ra.
Theo ông Lai, tổng nợ bằng đồng USD toàn cầu bên ngoài Mỹ từ 9 nghìn tỷ USD năm 2013, hiện tăng lên 12 nghìn tỷ USD. Trong đó, 25%, tương đương 3 nghìn tỷ USD, vay bởi công ty China Inc và các công ty con ở Hong Kong, Singapore, khu vực Caribbe.
"Cuộc chiến thương mại hiện nay có thể đẩy nợ bằng USD của thế giới lên 13 hoặc 14 nghìn tỷ USD không?" - Lai đặt câu hỏi và bổ sung rằng, quy mô khoản nợ bằng USD của toàn cầu có thể đạt đỉnh với việc USD bị thắt chặt, khiến các nhà đầu tư bán tháo tài sản để thu hồi USD và thanh toán các khoản nợ bằng đồng USD. "Chúng ta đang nói đến một cuộc khủng hoảng tài chính lớn - khủng hoảng nợ bằng USD".
Số nợ của Trung Quốc bằng USD tăng lên ở những trung tâm tài chính hải ngoại (OFC) đã gia nhập hệ thống tài chính Trung Quốc, đáng lo ngại vì viễn cảnh tỷ giá NDT có thể tiếp tục xuống thấp.
Các thương gia, nhà đầu tư và khách hàng của họ từng tranh thủ khoản sinh lợi giữa lãi suất của Mỹ và Trung Quốc để vay các khoản USD với chi phí thấp, sau đó chuyển đổi thành tài sản thanh toán bằng NDT có giá trị cao hơn. Nhưng nay Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC) tăng lãi suất nhằm ứng phó với việc FED tăng lãi suất. Điều này nhanh chóng thu hẹp sự khác biệt về tỷ lệ lãi suất giữa USD và NDT, do đó các khoản vay nợ bằng đô la trở nên khó thanh toán. Nếu NDT tiếp tục mất giá, với khoản nợ khổng lồ 3 ngàn tỷ USD, theo ông Lai, tại Trung Quốc sẽ gặp phải một cuộc khủng hoảng nợ vay nước ngoài bằng đồng đô la./.
Lưu Việt
Theo toquoc.vn
Tăng hơn 17 điểm, VN Index tái lập mốc 900 điểm Với 190 mã tăng, VN Index khởi đầu tuần giao dịch với 17 điểm tăng và tái lập thành công mốc 900 điểm trong phiên giao dịch ngày hôm nay (19-11). "Đầu tàu" dẫn dắt đà tăng của VN Index là mã VIC (Vingroup). Phiên hôm nay, VIC bất ngờ được khối ngoại mua vào và kết thúc phiên với dư mua trần...