Virus dễ gây t.ử v.ong và dị tật cho thai khi mẹ bị nhiễm
Khi virus Cytomegalo lây nhiễm, chúng sẽ ở trong cơ thể vật chủ suốt đời và dễ gây sẩy thai hoặc t.ử v.ong sau sinh
Gần đây, một trẻ sơ sinh tại Quảng Ninh t.ử v.ong do mẹ nhiễm virus Cytomegalo (CMV). Trẻ chào đời nặng 2,7 kg nhưng có biểu hiện toàn thân vàng nhợt, ban tím vùng lưng, mặt, tim đ.ập rời rạc và không qua khỏi sau 11 giờ được các bác sĩ của Bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển Uông Bí (Quảng Ninh) tích cực điều trị.
Theo Cục Y tế Dự phòng (Bộ Y tế), CMV là bệnh n.hiễm t.rùng hàng đầu gây điếc, chậm phát triển trí tuệ và mù bẩm sinh.
N.hiễm t.rùng CMV bẩm sinh thường không có triệu chứng nhưng dễ gây sẩy thai, thai c.hết lưu hoặc t.ử v.ong sau sinh. Virus gây một số biến chứng như đốm mảng xuất huyết trên da, gan, lách to, vàng da, teo não và đầu nhỏ, chậm phát triển… Hiện nay, các tài liệu về chủng virus này còn rất ít.
“Tử thần” của những người có hệ miễn dịch kém
Cytomegalovirus (CMV) là một loại virus liên quan đến chủng gây ra bệnh thủyđậu, herpes simplex và tăng bạch cầu đơn nhân. N.hiễm t.rùng CMV phổ biến ở mọi người, mọi lứa t.uổi.
Hình ảnh lưng bệnh nhi tại Quảng Ninh ngay sau sinh. Ảnh: BVCC.
Thông thường, hệ thống miễn dịch của con người sẽ là tấm khiên vững chắc ngăn virus xâm nhập và gây bệnh. Tuy nhiên, ở những người có hệ miễn dịch kém, Cytomegalovirus tấn công.
Một khi virus Cytomegalo lây nhiễm, nó sẽ ở trong cơ thể vật chủ suốt đời nhưng ở 2 thể ngủ và hoạt động.
Nếu cơ thể vật chủ đang khỏe mạnh, CMV ngủ yên trong tế bào bạch cầu. Chỉ cần hệ miễn dịch bị suy giảm, virus này có thể tái hoạt động và gây bệnh lý cho cơ thể.
Từ 80 đến 100% các ca bệnh có biểu hiện trên da như sẩn đỏ, chấm hoặc nốt xuất huyết, mề đay, hồng ban cứng. Trẻ nhiễm Cytomegalovirus bẩm sinh thường bị vàng da, thiếu m.áu, hạ tiểu cầu, gan lách to, sẩn ngứa, các cục dưới da, viêm màng mạch võng mạc (chorioretinitis). Thai nhi nếu nhiễm CMV sẽ chậm phát triển ở tử cung.
CMV có mặt ở mọi nơi trên thế giới nhưng không gây dịch. Điều kiện cho loại virus này phát triển là cuộc sống cộng đồng và vệ sinh cá nhân kém. Khoảng 1% trẻ sơ sinh chào đời nhiễm CMV. Tại các nước đang phát triển, tỷ lệ này cao hơn.
Trẻ nhỏ hoặc trong giai đoạn 7 ngày đầu sau sinh (chu sinh) rất dễ bị nhiễm bệnh. Người mẹ n.hiễm t.rùng CMV có thể truyền bệnh cho con qua nhau thai, quá trình sinh hoặc trong sữa mẹ. Ở trẻ nhỏ, virus thường được lây truyền qua nước bọt.
Đến t.uổi trưởng thành, CMV lây từ người này sang người khác qua tiếp xúc dịch cơ thể như m.áu, nước bọt, nước tiểu, sữa, t.inh d.ịch và dịch tiết cổ tử cung. Nó cùng truyền qua đường m.áu hoặc ghép tạng.
Video đang HOT
Khoảng 40-80% người lớn tại Mỹ bị n.hiễm t.rùng CMV trước t.uổi 40. Ở các nước phát triển, tỷ lệ này lên tới 90%. Trên thế giới, khoảng 80% người trưởng thành có kháng thể virus này trong người.
Khi virus Cytomegalo lây nhiễm, nó sẽ ở trong cơ thể vật chủ đến suốt đời. Ảnh: Medscape.
Dấu hiệu và biến chứng
Cytomegalovirus bị bất hoạt ở nhiệt độ 56 độ C trong vòng 30 phút, bởi tia cực tím và các chất sát khuẩn thông thường. Tỷ lệ nhiễm CMV tại Việt Nam vẫn chưa được thống kê.
Người nhiễm CMV thường không có triệu chứng nên rất khó phát hiện bệnh. Một khi nhiễm virus Cytomegalo, nó sẽ tồn tại suốt đời trong cơ thể. Thống kê của Cục Y tế Dự phòng cho thấy 95% ca bệnh CMV không có biểu hiện lâm sàng.
Nếu có, bệnh nhân sẽ gặp tình trạng sốt, mệt mỏi, yếu cơ, sưng hạch ngoại vi, hạch nội tạng, gan lách to, kèm theo thương tổn trên da như trường hợp của trẻ sơ sinh tại Quảng Ninh vừa qua.
Theo tài liệu của khoa Xét nghiệm, Bệnh viện Từ Dũ (TP.HCM), bệnh học n.hiễm t.rùng CMV được chia thành 3 loại tương ứng đối tượng bị mắc.
Ở người lớn và thanh, thiếu niên, Cytomegalovirus gây hội chứng tăng bạch cầu đơn nhân n.hiễm t.rùng. Thời gian ủ bệnh 20-60 ngày, các triệu chứng xuất hiện sau 2-6 tuần nhiễm virus như: Sốt kéo dài, lạnh run, suy yếu, khó chịu; đau cơ, lách to, viêm họng xuất tiết và viêm hạch ở cổ. Virus còn gây bất thường chức năng gan và bệnh lý lympho bào.
Các biểu hiện bệnh thường nhẹ và người mắc hầu như đều hồi phục, không để lại di chứng. Ở người lớn và thanh, thiếu niên, hiếm khi nhiễm CMV gây ra t.ử v.ong, trừ các trường hợp người bệnh bị suy giảm miễn dịch. Đặc biệt, bệnh nhân được ghép thận, tủy bị đè nén miễn dịch để biến chứng viêm phổi mô kẽ tỷ lệ cao.
Phụ nữ mang thai, trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ, người có hệ miễn dịch suy yếu là đối tượng dễ bị CMV tấn công. Ảnh: Conversation.
Trẻ có thể bị nhiễm CMV trong giai đoạn chu sinh (7 ngày sau khi chào đời) trong quá trình đi qua â.m đ.ạo hoặc lây sau khi bú sữa mẹ hay tiếp xúc trực tiếp các dịch tiết khác. Đa số bệnh nhi không có triệu chứng.
Một số trường hợp biểu hiện lâm sàng viêm phổi kẽ kéo dài. Các triệu chứng khác hay gặp ở trẻ nhiễm CMV trong giai đoạn chu sinh là cân nặng khi chào đời thấp, viêm hạch, nổi mẩn, viêm gan, tế bào lympho tăng và thiếu m.áu.
CMV có khả năng được đào thải không liên tục từ hầu họng và nước tiểu trong nhiều tháng, thậm chí vài năm.
Một số trường hợp khác là trẻ nhiễm CMV bẩm sinh trong quá trình thai nghén. Điều này gây nên bệnh thể vùi tế bào khổng lồ (Cytomegalo). Nhiều cơ quan cũng bị nhiễm dẫn đến bất thường bẩm sinh.
Hầu hết chỉ thai nhi có mẹ bị nhiễm CMV lần đầu trong khi mang bầu mới có triệu chứng lâm sàng. Thai nhi có nhiều dạng biểu hiện lâm sàng từ không có triệu chứng đến thể nặng và lan rộng toàn thân. Một số triệu chứng như đốm mảng xuất huyết, gan, lách to, vàng da (60-80%), teo não và đầu nhỏ, nhu mô não bị vôi hóa, chậm phát triển trong tử cung(30-50%), thoát vị bẹn và viêm võng mạc ít thấy hơn.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC), một số trẻ sơ sinh có dấu hiệu nhiễm CMV từ khi chào đời phải đối mặt các vấn đề sức khỏe lâu dài như mất thính lực, thị lực, chậm phát triển và vận động, đầu nhỏ, co giật…
N.hiễm t.rùng CMV là bệnh không có vaccine và thuốc điều trị đặc hiệu. Nguy cơ lây nhiễm của các sản phụ, thai nhi là rất cao. Do đó, chúng ta chỉ có thể giảm thiểu nguy cơ nhiễm virus qua các biện pháp phòng bệnh.
Các bác sĩ khuyến cáo chúng ta nên xét nghiệm, chẩn đoán CMV từ sớm, nhất là người có hệ miễn dịch suy yếu. Đặc biệt, phụ nữ mang thai cần xét nghiệm m.áu chẩn đoán trước sinh.
Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh khuyến cáo phụ nữ mang thai và cho con bú nên rửa sạch tay bằng xà bông, nước, đặc biệt là sau khi thay tã, vệ sinh. Các mẹ nên vệ sinh đồ chơi, các vật dụng dễ dính nước bọt, nước tiểu của trẻ thường xuyên. Chúng ta nên tránh dùng chung đồ ăn, ly uống nước và tránh hôn trẻ.
Trẻ khỏe mạnh nhờ... đủ dinh dưỡng
Trẻ hay bị ốm, dễ mắc các bệnh n.hiễm t.rùng là biểu hiện của hệ thống miễn dịch yếu và chế độ dinh dưỡng chưa tốt. Điều đó đồng nghĩa với việc trẻ có sức đề kháng tốt sẽ ít bị bệnh, cơ thể phát triển tốt cần có một chế độ dinh dưỡng đầy đủ, đa dạng, cân đối và hợp lý theo nhu cầu lứa t.uổi.
Khi trẻ sinh ra cơ thể còn non nớt, hệ miễn dịch vẫn chưa được hoàn thiện, sức đề kháng còn kém. Những trẻ ở cùng một lứa t.uổi, cùng một điều kiện chăm sóc và môi trường sống, khi phải đối diện với những tác nhân gây bệnh từ bên ngoài như dịch bệnh, thay đổi thời tiết... thì có kết quả khác nhau, có trẻ bị mắc bệnh, có trẻ lại không, đấy là do sự khác biệt về hệ thống miễn dịch của trẻ.
Khi hệ thống miễn dịch mạnh có thể làm giảm nguy cơ nhiễm virus và vi khuẩn, giúp cơ thể chống lại tác nhân gây bệnh, giảm bớt thời gian điều trị và tăng tốc quá trình phục hồi sau khi khỏi bệnh. Hệ thống miễn dịch được tạo thành từ một mạng lưới các tế bào, mô và cơ quan phối hợp với nhau tạo thành hệ thống phòng thủ của cơ thể chống lại các sinh vật truyền nhiễm, tác nhân gây bệnh. Tuy nhiên, hệ thống miễn dịch mạnh yếu khác nhau do các yếu tố như t.uổi tác, thói quen ăn uống và lối sống.
Bổ sung dinh dưỡng cho trẻ
Một chế độ ăn uống đủ nhu cầu, cân bằng, giàu axit amin thiết yếu sẽ giúp trẻ tăng cường hệ miễn dịch. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh sự thiếu hụt protein hoặc axit amin trong chế độ ăn uống có thể làm suy giảm chức năng miễn dịch, giảm khả năng chống lại sự xâm nhập của vius, vi khuẩn gây bệnh.
Các amino acid được hấp thu trong cơ thể do protein cung cấp có vai trò hết sức quan trọng: Là thành phần chính của kháng thể giúp cơ thể chống lại các bệnh nhiễm khuẩn, thực hiện chức năng miễn dịch, đồng thời là thành phần của các men và các nội tiết tố rất quan trọng trong hoạt động chuyển hóa của cơ thể. Chế độ dinh dưỡng của trẻ qua các giai đoạn phát triển giúp tăng cường sức đề kháng như sau:
Nuôi con bằng sữa mẹ: Cho trẻ bú ngay sau khi sinh, bú hoàn toàn sữa mẹ trong 6 tháng đầu, cho trẻ bú đến 24 tháng t.uổi hoặc lâu hơn và tiêm phòng là cách tốt nhất để bảo vệ sức khỏe cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Sữa mẹ là nguồn thức ăn tự nhiên tốt nhất cho trẻ, sữa mẹ có đầy đủ các thành phần dinh dưỡng với tỷ lệ cân đối phù hợp với hệ tiêu hóa và hấp thu của trẻ.
Sữa mẹ còn có kháng thể giúp trẻ tăng cường sức đề kháng chống lại các bệnh n.hiễm t.rùng. Việc nuôi con bằng sữa mẹ sẽ giảm nguy cơ thiếu dinh dưỡng hoặc thừa dinh dưỡng, các bệnh mạn tính không lây khi trưởng thành, đặc biệt là bệnh lý tim mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường,...
Sữa mẹ là nguồn thức ăn tự nhiên tốt nhất cho trẻ dưới 6 tháng t.uổi.
Ăn bổ sung đúng độ t.uổi: Ăn bổ sung là hình thức bổ sung thêm thức ăn khác cho trẻ ngoài sữa mẹ. Theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế thế giới, thời điểm cho trẻ ăn bổ sung là khi trẻ tròn 6 tháng t.uổi (180 ngày), do nhu cầu của trẻ tăng cao sữa mẹ không đáp ứng đủ vì vậy cần bổ sung thêm thức ăn cho trẻ.
Không cho trẻ ăn bổ sung quá sớm hoặc quá muộn, khi trẻ ăn thiếu về số lượng và chất lượng, thiếu vệ sinh dẫn đến suy dinh dưỡng và bệnh tật. Giai đoạn cho trẻ ăn bổ sung đến khi cai sữa là thời kỳ đe dọa suy dinh dưỡng nhất đối với trẻ.
Ăn bổ sung là quá trình trẻ từ từ làm quen, tiếp xúc với các thức ăn như người lớn, đồng thời bú mẹ ngày càng ít hơn, quá trình bé chuyển dần từ thức ăn tinh (sữa mẹ) sang thức ăn thô (4 nhóm thực phẩm). Vì vậy, nguyên tắc cho trẻ ăn bổ sung là ăn từ ít đến nhiều, từ lỏng đến đặc.
Trong 6 tháng đầu trẻ được mẹ truyền kháng thể qua sữa mẹ, vì vậy trẻ ít bị bệnh. Sau 6 tháng t.uổi trẻ dễ bị mắc bệnh, lượng kháng thể là do tự cơ thể trẻ đảm nhiệm, do vậy hệ miễn dịch của trẻ còn thiếu và yếu. Vì vậy bất kỳ một thức ăn bổ sung nào cho trẻ ăn cũng phải được bảo quản và chế biến đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
Bữa ăn bổ sung của trẻ, tùy theo độ t.uổi phải đảm bảo cung cấp đủ các chất dinh dưỡng thiết yếu từ 4 nhóm thực phẩm: Nhóm glucid, protein, lipid, vitamin và chất khoáng. Cho ăn đủ nhu cầu, cân đối các chất dinh dưỡng giúp cho trẻ phát triển tốt, ngược lại nếu trẻ ăn thiếu hoặc dư thừa sẽ có nguy cơ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, thể thấp còi, thể thừa cân béo phì, đồng thời với chế độ ăn nhiều chất đạm, khiến hệ tiêu hóa phải làm việc mệt mỏi, dễ rối loạn tiêu hóa, gây phân sống, tiêu chảy...
Cho trẻ ăn như thế nào?
Chế biến thức ăn cho trẻ phải phù hợp theo từng lứa t.uổi. Với trẻ dưới 12 tháng, các loại thức ăn cần xay thành bột, thái nhỏ, nghiền nát, nấu kỹ cho dễ tiêu. Khi trẻ trên 12 tháng và có đủ răng hàm cần cho trẻ ăn thô hơn để tập cho trẻ ăn nhai. Trẻ từ 6-7 tháng cho trẻ ăn thịt, trứng; từ 7-8 tháng tập cho trẻ ăn cá, tôm, cua, đậu đỗ, vừng, lạc...; từ 9 tháng có thể tập cho trẻ ăn tất cả các loại thức ăn giống người lớn.
Thức ăn phải được chế biến phù hợp với từng lứa t.uổi.
Số bữa ăn của trẻ: Sau 6 tháng, trẻ bú mẹ là chính 1-2 bữa bột loãng và nước quả, có thể cho trẻ uống thêm sữa ngoài thay cho một bữa bột (150-200ml); từ 7-9 tháng, bú mẹ 2-3 bữa bột đặc (10%) nước quả hoặc hoa quả nghiền, từ 10-12 tháng, bú mẹ 3-4 bữa bột đặc (15%), hoặc cháo nước quả hoặc hoa quả nghiền.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh sự thiếu hụt protein hoặc axit amin trong chế độ ăn uống có thể làm suy giảm chức năng miễn dịch, giảm khả năng chống lại sự xâm nhập của vius, vi khuẩn gây bệnh.
Chế độ ăn cho trẻ 1-2 t.uổi: Tiếp tục cho trẻ bú mẹ, nếu mẹ không có sữa cho bé uống sữa ngoài 300ml-500ml/ngày, ăn 4 bữa cháo hoặc súp mỗi ngày, ăn quả chín theo nhu cầu của trẻ.
Chế độ ăn cho trẻ từ 2-3 t.uổi: Chuyển từ chế độ ăn cháo sang ăn cơm nát, nhưng vẫn phải cho ăn thêm cháo mì, súp, phở và uống sữa, trẻ vẫn cần có chế độ ăn riêng.
Chế độ ăn cho trẻ từ 3-5 t.uổi: Số bữa ăn hàng ngày giống như cho trẻ từ 2-3 t.uổi (4 bữa) nhưng lượng ăn phải tăng lên. Ở lứa t.uổi này nên cho trẻ ăn các món mà trẻ yêu thích. Tuyệt đối không nên cho trẻ ăn bánh kẹo, nước ngọt, quả chín ngọt trước mỗi bữa ăn.
Trẻ mẫu giáo và học sinh, cần ăn uống điều độ, đủ nhu cầu các chất dinh dưỡng theo từng lứa t.uổi, nếu trẻ bị biếng ăn nên bổ sung thêm các loại thực phẩm giàu dinh dưỡng. Nên ăn nhiều quả chín, rau xanh.
Mẹ bắt con ngủ trưa, kết quả con chậm phát triển trí tuệ, bác sĩ bức xúc "Thiếu hiểu biết!" Một thời gian dài người mẹ liên tục ép con ngủ trưa và hài lòng với hành động này. Theo truyền thông Trung Quốc đưa tin, Quiquin là cô bé vừa vào lứa t.uổi đi học, rất đáng yêu, ngoan ngoãn và luôn được mọi người yêu thương. Thế nhưng, cô bé này luôn phản ứng mọi việc chậm chạp hơn các bạn...