Vĩnh Phúc: Doanh nghiệp khu công nghiệp đang thu hút nhiều lao động
Ngay sau khi COVID-19 trên địa bàn Vĩnh Phúc cơ bản được khống chế, làn sóng tìm kiếm cơ hội đầu tư từ nước ngoài đã sôi động trở lại và các doanh nghiệp đang tìm kiếm lao động với mức lương ổn định.
Bao gói sản phẩm tại Công ty cổ phần Giầy Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. (Ảnh: Hoàng Hùng/TTXVN)
Vĩnh Phúc cũng như nhiều tỉnh thành trong cả nước chịu sự tác động tiêu cực của dịch bệnh COVID-19 khiến cho không ít doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh khó khăn, lao động phải nghỉ việc luân phiên.
Tuy nhiên, ngay sau khi dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh cơ bản được khống chế, làn sóng tìm kiếm cơ hội đầu tư từ nước ngoài vào Vĩnh Phúc đã sôi động trở lại.
Đặc biệt, các doanh nghiệp đã và đang đứng chân trong khu công nghiệp đã hoạt động trở lại bình thường và đang thu hút nhiều lao động vào làm việc với mức thu nhập khá ổn định.
Gỡ khó kịp thời
Riêng trong 9 tháng năm 2020, tỉnh có 20 dự án vốn đầu tư nước ngoài (FDI) được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư với tổng vốn đăng ký trên 110 triệu USD.
Những tháng cuối năm 2020, Ban Quản lý các khu công nghiệp Vĩnh Phúc sẽ tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư, thực hiện thu hút đầu tư theo quy hoạch, có chọn lọc gắn với phát triển bền vững từ các thị trường truyền thống như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), hướng tới các thị trường tiềm năng Mỹ, EU…
Để giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn, chuẩn bị đón đầu tư mới, nhất là sau đại dịch, lãnh đạo tỉnh Vĩnh Phúc đã giao các sở, ngành liên quan triển khai các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp.
Tỉnh đã tổ chức nhiều cuộc gặp gỡ, làm việc với các nhà đầu tư, doanh nghiệp để tìm hiểu những khó khăn, vướng mắc của họ.
Thời điểm dịch COVID-19 lan ra nhiều tỉnh, thành trong cả nước và ở nhiều quốc gia, nguồn nguyên liệu đầu vào nhập khẩu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia, Ấn Độ… phục vụ sản xuất ở một số ngành bị giảm sút nên các doanh nghiệp phải tìm nhà cung cấp nguyên liệu mới ở các quốc gia khác với giá mua vào cao hơn. Điều này ảnh hưởng đến sản lượng và giá bán của các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp phải ngừng, nghỉ, hoặc hoạt động cầm chừng…
Trên cơ sở đó, Vĩnh Phúc đã thành lập các đoàn công tác đến gặp gỡ, nắm bắt thông tin, chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong giải quyết các thủ tục hành chính.
Tỉnh đề xuất với các bộ, ngành Trung ương tạo các điều kiện cho các doanh nghiệp nhập nguyên liệu thô, đồng thời xuất sản phẩm hàng hóa làm ra đang tồn kho để duy trì hoạt động.
Video đang HOT
Ngành hải quan cũng chủ động trao đổi với các doanh nghiệp về khó khăn với các thủ tục thông quan; kịp thời làm rõ ý kiến, yêu cầu thuộc lĩnh vực xuất nhập khẩu và tăng cường kết nối với nhiều doanh nghiệp có dịch vụ logistics đang hoạt động trên địa bàn tỉnh để giải quyết kịp thời khó khăn vướng mắc.
Ủy ban Nhân dân tỉnh đã tổ chức hội nghị đối thoại đối với từng nhóm doanh nghiệp trên địa bàn để tìm các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, kịp thời giải quyết thủ tục cấp giấy phép lao động hoặc gia hạn giấy phép lao động cho người nước ngoài đang làm việc tại các doanh nghiệp trên địa bàn.
Bên cạnh đó, tỉnh yêu cầu các cơ quan, đơn vị tăng cường giải quyết thủ tục hành chính qua mạng Internet và bưu điện, rút ngắn ít nhất 30% thời gian giải quyết thủ tục hành chính, tạo điều kiện tối đa cho các doanh nghiệp. Cùng đó, đẩy mạnh thông tin tuyên truyền, thực hiện hỗ trợ miễn, giảm chi phí thông tin quảng cáo, thông báo tuyển dụng lao động cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Gỡ khó về vốn cho doanh nghiệp, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh Vĩnh Phúc đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi để doanh nghiệp, hộ kinh doanh bị ảnh hưởng do tác động của dịch bệnh được tiếp cận vốn vay, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển.
Thực hiện chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, các tổ chức tín dụng đã đồng loạt giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn, ổn định sản xuất.
Cụ thể, lãi suất cho vay các lĩnh vực ưu tiên phổ biến ở mức 4,5-5%/năm đối với ngắn hạn; 5,5- 8%/năm đối với trung, dài hạn (lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6,0-8,5%/năm đối với ngắn hạn; 8,8-10,5%/năm đối với trung và dài hạn). Đồng thời, tiếp tục thực hiện các gói cho vay, chương trình cho vay với lãi suất ưu đãi (giảm từ 0,5-2%/năm) với quy mô lớn để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19…
Thúc đẩy dòng vốn tái đầu tư
Ông Nguyễn Văn Độ, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc, cho biết Vĩnh Phúc có thế mạnh phát triển công nghiệp, giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động, đồng thời đem lại nguồn thu ngân sách Nhà nước lớn cho tỉnh.
Trong các doanh nghiệp đến đầu tư ở Vĩnh Phúc phải kể đến các doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài (FDI) có năng lực cạnh tranh mạnh mẽ, sản phẩm hàng hóa có giá trị cao và xuất đi nhiều quốc gia trên thế giới như các doanh nghiệp sản xuất ôtô, xe máy, doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng điện tử, cơ khí, thép…
Năm 1998, Vĩnh Phúc chỉ có 8 dự án FDI thì đến hết tháng 12/2017, tỉnh đã có 255 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký hơn 3,75 tỷ USD. Đến hết tháng 9/2020, tỉnh đã có 402 doanh nghiệp FDI với tổng vốn đăng ký đầu tư lên hơn 5,7 tỷ USD.
Sự có mặt của các doanh nghiệp đã giúp kinh tế Vĩnh Phúc luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, thu ngân sách bình quân của Vĩnh Phúc những năm gần đây đạt trên dưới 30.000 tỷ đồng/năm.
Bà Nguyễn Thị Kim Dinh, Phó Trưởng phòng Quản lý lao động, Ban Quản lý các Khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc, cho hay, các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp ở Vĩnh Phúc, đặc biệt, gần đây, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) với trình độ khoa học công nghệ hiện đại, năng lực sản xuất tốt tăng mạnh về số lượng đã giúp người dân có công ăn việc làm, thu nhập ổn định.
Cô giáo và học sinh Khoa điện tử Trường Cao đẳng nghề Vĩnh Phúc trong giờ học thực hành. (Ảnh: Hoàng Hùng/TTXVN)
Nếu như năm 2014, các khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc có 42.540 công nhân, thu nhập bình quân của công nhân lao động phổ thông từ 3,2 đến 3,4 triệu đồng/người/tháng.
Năm 2018, các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp ở tỉnh thu hút hơn 82.000 lao động, lao động phổ thông ở các khu công nghiệp có thu nhập bình quân từ 6-7 triệu đồng/người/tháng.
Đến tháng 10/2020, các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp nói chung ở Vĩnh Phúc đang hoạt động ổn định, giải quyết việc làm cho hơn 90.000 lao động và lao động phổ thông ở các khu công nghiệp hiện có thu nhập bình quân từ 7-8 triệu đồng/người/tháng.
Có được điều này là do Vĩnh Phúc có hàng loạt cơ chế chính sách để thu hút đầu tư, đồng thời giải quyết công ăn việc làm cho lao động và đã đạt được những kết quả tích cực.
Để tiếp tục thúc đẩy các khu công nghiệp phát triển bền vững, tỉnh Vĩnh Phúc tiếp tục cho rà soát, điều chỉnh, bổ sung danh mục quy hoạch khu công nghiệp điều chỉnh quy hoạch xây dựng, xác định phạm vi, danh giới, địa điểm khu công nghiệp.
Tỉnh Vĩnh Phúc chú trọng các hoạt động xúc tiến đầu tư tại chỗ đối với các dự án đã đầu tư hiệu quả tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh; thúc đẩy dòng vốn tái đầu tư của các dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh làm tăng quy mô và giá trị vốn đầu tư, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế./.
Thận trọng trước xu hướng ngoại hóa doanh nghiệp nội
Tính đến giữa năm 2020, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 15,67 tỷ USD, bằng 84,9% so với cùng kỳ năm 2019.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến giữa năm 2020, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 15,67 tỷ USD, bằng 84,9% so với cùng kỳ năm 2019.
Đáng chú ý, trong thời gian này có 4.125 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm ngoái.
Đó là tín hiệu vừa đáng mừng, song cũng có ý kiến băn khoăn trước khả năng đang diễn ra xu hướng "ngoại hóa" các doanh nghiệp nội địa.
Để phân tích kỹ hơn về vấn đề này, phóng viên TTXVN đã có cuộc phỏng vấn ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).
Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI). Ảnh: Thạch Huê/BNEWS/TTXVN
Phóng viên: Trước diễn biến tăng lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng so với cùng kỳ năm ngoái trong khi dịch COVID-19 đang tác động tiêu cực đến kinh tế toàn cầu, ông có bình luận gì về con số này?
Ông Hoàng Quang Phòng: Dữ liệu về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong 6 tháng đầu năm 2019 được Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) công bố, cho thấy dòng vốn ngoại đang tiếp tục đổ về Việt Nam. Đặc biệt là trong bối cảnh xung đột thương mại và địa chính trị tiếp tục xảy ra ở nhiều nước trên thế giới, dịch COVID-19 ảnh hưởng đến các nền kinh tế cùng với những dự báo của các tổ chức quốc tế về tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang có diễn biến chậm lại.
Sự tăng trưởng về tỷ lệ đăng ký vốn đầu tư nước ngoài có thể hiểu là do các dự án có lượng vốn cam kết cao ở những năm trước, đến nay được thúc đẩy giải ngân đầu tư trên thực tế. Tuy nhiên, cũng có thể là do tác động từ chiến tranh thương mại giữa các cường quốc trên thế giới và chính sách giảm thuế theo các Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam với các quốc gia và vùng lãnh thổ đã tạo lực hút mạnh nguồn vốn đầu tư trên thế giới "nhắm" vào Việt Nam.
Tôi thấy, cũng không loại trừ một xu hướng đáng chú ý khác là sự gia tăng mạnh mẽ dòng vốn góp hay việc mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong tỷ lệ đăng ký đầu tư ở các dự án tại nhiều địa phương đang thể hiện khả năng các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn "thâu tóm" các doanh nghiệp nội địa.
Phóng viên: Trong bối cảnh hiện nay, thực trạng và sức khỏe của các doanh nghiệp nội địa đang rất "mong manh" sau những sang chấn và tác động tiêu cực của dịch COVID-19. Ông đánh giá như thế nào về diễn biến của thị trường mua bán, sáp nhập doanh nghiệp ?
Ông Hoàng Quang Phòng: Trong 6 tháng đầu năm 2020, cả nước có 1.418 dự án mới được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư với tổng vốn đăng ký hơn 8,43 tỷ USD; có 526 lượt dự án được đăng ký điều chỉnh tăng vốn với tổng mức 3,72 tỷ USD. Trong số đó, có thể thấy các lĩnh vực chế biến, chế tạo; phân phối điện, nước, khí, điều hòa, ô tô, xe máy, bất động sản, tài chính, ngân hàng và bảo hiểm.... là khu vực có tỷ lệ góp vốn, mua cổ phần nhiều nhất. Chứng tỏ, các nhà đầu tư nước ngoài đang dành sự ưu tiên đặc biệt vào những lĩnh vực này.
6 tháng đầu năm 2020 cũng đã ghi nhận có 98 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam; trong đó Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư 5,44 tỷ USD, chiếm 34,7% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; Thái Lan đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư 1,58 tỷ USD, chiếm 10,1% tổng vốn đầu tư; Trung Quốc đứng vị trí thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký 1,58 tỷ USD, chiếm 10,1% tổng vốn đầu tư; tiếp theo là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc)...
Một số dự án đầu tư nước ngoài trong giai đoạn này có thể điểm qua như dự án Nhà máy dệt kim tại KCN Texhong Hải của Hồng Kông (Trung Quốc), vốn đăng ký đầu tư 214 triệu USD; dự án Nhà máy sản xuất của USI tại Việt Nam của Trung Quốc, vốn đầu tư 200 triệu USD với mục tiêu sản xuất bản mạch điện tử thiết bị đeo được tại Hải Phòng; dự án Nhà máy Công ty TNHH Furukawa Automotive Systems Vĩnh Long Việt Nam (Nhật Bản), vốn đầu tư 48,8 triệu USD với mục tiêu sản xuất bộ dây diện dùng cho xe ô tô tại Vĩnh Long.
Bên cạnh đó là dự án Nhà máy điện khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) Bạc Liêu thuộc Trung tâm nhiệt điện LNG Bạc Liêu của Singapore, vốn đầu tư đăng ký 4 tỷ USD với mục tiêu sản xuất điện từ khí tự nhiên hóa lỏng LNG; dự án Tổ hợp hoá dầu miền Nam Việt Nam (Thái Lan) tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, điều chỉnh tăng vốn đầu tư 1,386 tỷ USD; dự án công trình văn phòng tại 29 Liễu Giai của Singapore, điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 246 triệu USD...
Theo đánh giá của các chuyên gia, làn sóng đầu tư nước ngoài mới đang tràn đến Việt Nam là minh chứng cho sự dịch chuyển đầu tư được thúc đẩy bởi cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung hay dịch COVID-19 cùng với nhiều nhân tố khác. Đây là nguồn vốn đầu tư nước ngoài có chất lượng vì hiện rất ít nước có khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn của các tập đoàn đa quốc gia nên chứng tỏ, môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam cũng như các yếu tố khác về chất lượng nguồn nhân lực, trình độ khoa học công nghệ đang có sự cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên, nói gì thì nói, tôi vẫn cho rằng, cần có sự thận trọng nhất định. Bởi lẽ, môi trường thể chế, hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành quy định về đầu tư, hoạt động của doanh nghiệp hiện vẫn đang trong quá trình liên tục cập nhật và chỉnh sửa để phù hợp hơn với yêu cầu phát triển thực tế khách quan. Vẫn còn nhiều vướng mắc và bất cập về điều kiện kinh doanh làm khó và trói chân doanh nghiệp.
Xét ở bối cảnh hiện tại, thực lực của doanh nghiệp nội địa đang rất mong manh và yếu thế sau những cú "va đập" vì ngoại cảnh khách quan của thị trường, của dịch bệnh... Do đó, đón dòng đầu tư nước ngoài vừa nhiều, vừa mạnh về ngay lúc này...e rằng, lợi bất cập hại.
Tôi cho rằng thị trường cần những động lực thúc đẩy tích cực. Song để có những động thái nhanh, mạnh và dứt điểm cũng cần sự thận trọng nhất định và góc nhìn rộng hơn để tránh những hệ lụy.
Phóng viên: Nhiều đề xuất về việc quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài theo hình thức góp vốn, mua cổ phần nên theo hướng đơn giản về thủ tục, không bắt buộc nhà đầu tư phải đăng ký đầu tư, vừa gây khó khăn cho cơ quan Nhà nước trong việc quản lý hoạt động góp vốn tại các doanh nghiệp và dễ dẫn đến tình trạng đầu tư "chui", đầu tư "núp bóng"... Quan điểm của ông thì sao?
Ông Hoàng Quang Phòng: Trong các thương vụ mua bán, sáp nhập doanh nghiệp, việc lựa chọn đối tác nào và cách thức đối tác ra sao có lẽ người trong cuộc thường rõ hơn ai hết. Cũng vẫn có tình trạng, phía sau các thương vụ mua bán - sáp nhập xảy ra tình trạng "cơm không lành, canh không ngọt" hay sự bất đồng về quan điểm giữa các đối tác đầu tư.
Song vấn đề ở chỗ, cứ không quản được là cấm, là siết chặt, tôi nghĩ, chúng ta đang có những thứ mà các nhà đầu tư nước ngoài cần. Đó là thị trường Việt Nam hội tụ đủ các yếu tố để được thúc đẩy sôi động và phát triển, vậy cớ sao phải quản "chặt" để rồi luôn mang tiếng là khó, là thiếu thân thiện...
Tôi cho rằng, cơ bản cần có một bộ khung pháp lý sao cho đủ chắc chắn, minh bạch, khách quan và công bằng và áp dụng chung cho tất cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước, còn vận hành ra sao, hãy để thị trường tự quyết định đúng theo quy luật và những người tham gia phải tuân thủ đúng theo luật chơi mà chính họ đã xây dựng và cùng nhau thống nhất.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông!
Bộ Xây dựng thoái vốn tại CC1 và IDICO, kỳ vọng thu về tối thiểu 3.900 tỷ Bộ Xây dựng sẽ thoái toàn bộ hơn 44,5 triệu cổ phần tại CC1 và 108 triệu cổ phần tại Idico. Bộ Xây dựng dự kiến thu về tối thiểu 3.900 tỷ đồng từ thoái vốn. Tại Quyết định số 1355/QĐ-BXD và Quyết định số 1356/QĐ-BXD, Bộ Xây dựng đã phê duyệt phương án thoái vốn nhà nước tại Tổng công ty Xây...