Vietinbank Securities: “Thiếu hụt điện thúc đẩy việc phát triển nhanh nguồn năng lượng tái tạo tại Việt Nam”
Vietinbank Securities dự báo năng lượng tái tạo phi thủy điện (mặt trời gió) sẽ tăng trưởng mạnh mẽ, đạt trên 7,3 GW vào cuối năm 2020, và 42,5 GW vào cuối năm 2030, phù hợp với môi trường pháp lý ngày càng hỗ trợ cho ngành cùng với tiềm năng năng lượng tái tạo ngoài thủy điện chưa được khai thác.
Tại talkshow “Ngành năng lượng tái tạo: Cơ hội và giải pháp”, ông Nguyễn Nhật Cường – Phó phòng nghiên cứu phân tích Vietinbank Securities đã chia sẻ tiềm năng ngành năng lượng tái tạo tại Việt Nam.
Theo ông Cường, năng lượng tái tạo được dự báo có tốc độ tăng trưởng bình quân gần 20% trong 10 năm tới, gấp hơn 2 lần tốc độ tăng trưởng bình quân ngành điện khoảng 9%. Nguyên nhân chủ yếu từ chuyển hướng chiến lược, giảm tỷ trọng nhiệt điện than và tăng sản xuất điện từ năng lượng tái tạo (chủ yếu là mặt trời và gió). Dự báo tới năm 2030, tỷ trọng công suất phát từ Năng lượng tái tạo sẽ vượt qua điện than.
Ông Cường cho rằng giai đoạn năm 2021-2025, Việt Nam có thể đối mặt với nguy cơ thiếu điện. Cụ thể, mức thiếu hụt điện năng dự báo khoảng 3,7 tỷ kWh năm 2021, gần 10 tỷ kWh năm 2022; mức thiếu hụt cao nhất vào năm 2023 khoảng 12 tỷ kWh và sau đó giảm dần xuống 7 tỷ kWh năm 2024 và 3,5 tỷ kWh năm 2025.
Nguyên nhân là do các dự án lớn chậm tiến độ như dự án khí Lô B, Cá Voi Xanh đều chậm so với kế hoạch từ 9 tháng đến 1 năm, dẫn tới cung cấp khí cũng thiếu hụt khoảng 2-3 tỉ m3/năm đến năm 2023-2024 và tăng lên 10 tỉ m3 vào năm 2030. Dự án nhiệt điện Kiên Giang 1&2 không đáp ứng tiến độ, dự án Ô Môn III lùi tiến độ đến năm 2025. Các dự án nhiệt điện Thái Bình II, Long Phú 1, Sông Hậu 1 chậm tiến độ 2 năm. Nhu cầu than cho sản xuất điện chưa đáp ứng được yêu cầu cả khối lượng, chủng loại. Ngoài ra là các yếu tố khác như đường dây 500 kV mạch 3 bị chậm tiến độ gần 1 năm.
Video đang HOT
Dự báo, các nguy cơ này sẽ càng thúc đẩy việc phát triển nguồn điện năng lượng tái tạo (mặt trời gió) do thời gian thi công nhanh và sử dụng nguyên liệu tại chỗ. Vietinbank Securities ước tính từ năm 2020-2030, tăng trưởng nguồn năng lượng mặt trời là 12,8% và điện gió là 34,2%.
Khí tự nhiên cũng sẽ là nguồn sản xuất điện quan trọng của Việt Nam, chiếm 18,8% tổng nguồn điện vào năm 2030, tăng trưởng đáng kể vào cuối giai đoạn dự báo của chúng tôi khi có thêm nhiều kho, cảng LNG đi vào hoạt động.
Vào cuối năm 2019, các đập thủy điện lớn đã có mực nước thấp kỷ lục do sự thay đổi thời tiết trong quốc gia có khả năng đe dọa đến sản lượng thủy điện vào năm 2020. Vietinbank Securities kỳ vọng mức tăng nhẹ đối với sản xuất thủy điện trong thập kỷ tới, và tỷ trọng thủy điện trong nguồn phát điện sẽ giảm dần xuống còn khoảng 18,1% năm 2030 từ mức ước tính 36,2% vào năm 2020, với sự gia tăng nhanh chóng của các nguồn năng lượng tái tạo.
Vietinbank Securities dự báo năng lượng tái tạo phi thủy điện (mặt trời gió) sẽ tăng trưởng mạnh mẽ, đạt trên 7,3 GW vào cuối năm 2020, và 42,5 GW vào cuối năm 2030, phù hợp với môi trường pháp lý ngày càng hỗ trợ cho ngành cùng với tiềm năng năng lượng tái tạo ngoài thủy điện chưa được khai thác. Bên cạnh đó, công suất năng lượng tái tạo phi thủy điện cũng được kỳ vọng sẽ tăng trưởng với tốc độ mạnh mẽ ở mức 20% trong 10 năm tới.
Với tiềm năng to lớn của ngành năng lượng tái tạo, trong những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp lớn đã tham gia vào lĩnh vực này. Nổi bật trong đó có thể kể tới Tập đoàn Hà Đô khi từ năm 2019, tập đoàn này dần chuyển hướng sang mảng năng lượng tái tạo nhằm đón đầu xu hướng tăng trưởng nhanh của ngành điện Việt Nam.
Hà Đô hiện đang sở hữu 3 nhà máy thủy điện với tổng công suất 119MW và 2 nhà máy điện mặt trời với tổng công suất 98MWp. Công ty cũng đang tiến hành đầu tư 3 nhà máy điện khác với tổng công suất 254 MW (Sông Tranh 4, Dak Mi 2 và nhà máy điện gió 7A thuận Nam). Ngoài ra, Hà Đô cũng đang tiến hành nghiên cứu đầu tư 7 nhà máy điện mặt trời, đinệ gió với tổng công suất khoảng 500 MW.
Thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ của Việt Nam giảm 1,7%, đạt 58,2 tỷ USD cuối tháng 6/2020
Việc cải thiện tâm lý của các nhà đầu tư và điều kiện tài chính toàn cầu đã tạo ra sự gia tăng hết sức cần thiết cho các thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ tại khu vực Đông Á mới nổi, bất chấp những nguy cơ từ đại dịch Covid-19.
Đó là đánh giá được Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đưa ra trong ấn bản mới nhất của Báo cáo Giám sát trái phiếu châu Á vừa công bố.
Chuyên gia Kinh tế trưởng của ADB, ông Yasuyuki Sawada, nhận định: "Các chính phủ trong khu vực đã rất linh hoạt khi ứng phó với tác động của đại dịch Covid-19 thông qua một loạt giải pháp chính sách, bao gồm nới lỏng tiền tệ và kích thích tài chính. Điều hết sức quan trọng là các chính phủ và ngân hàng trung ương cần duy trì lập trường chính sách tiền tệ mang tính thích ứng và bảo đảm đủ thanh khoản để hỗ trợ sự ổn định tài chính và phục hồi kinh tế".
Khu vực Đông Á mới nổi bao gồm Trung Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc), Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam.
Trong giai đoạn từ ngày 15/6 tới ngày 11/9, lợi suất trái phiếu chính phủ tại phần lớn các thị trường Đông Á mới nổi đã giảm sút trong bối cảnh các chính sách tiền tệ thích ứng được áp dụng và tăng trưởng yếu trên khắp khu vực. Trong khi đó, việc cải thiện tâm lý đã dẫn tới sự gia tăng trong các thị trường vốn cổ phần của khu vực và thu hẹp chênh lệch tín dụng, với hầu hết các đồng tiền trong khu vực đều mạnh lên so với đồng USD.
Trái phiếu bằng đồng nội tệ đang lưu hành trên các thị trường Đông Á mới nổi đạt 17.200 tỷ USD vào cuối tháng 6, tăng 5,0% so với tháng 3/2020 và cao hơn 15,5% so với tháng 6/2019.
Tính theo tỷ lệ phần trăm của tổng sản phẩm quốc nội khu vực, trái phiếu bằng đồng nội tệ đang lưu hành của khu vực Đông Á mới nổi đã đạt tới 91,1% vào cuối tháng 6, so với mức 87,8% hồi tháng 3, chủ yếu là do lượng tiền lớn cần thiết để chống lại đại dịch và giảm thiểu tác động của nó.
Lượng phát hành trái phiếu trong khu vực đạt 2.000 tỷ USD trong quý II, tăng 21,3% so với quý I năm nay. Trung Quốc vẫn là nơi có thị trường trái phiếu lớn nhất của khu vực, chiếm tới 76,6% tổng lượng trái phiếu của khu vực tính tới cuối tháng 6.
Thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ của Việt Nam đã giảm 1,7% tại thời điểm cuối tháng 6 năm nay, đạt 58,2 tỷ USD, sau khi có được mức tăng trưởng hằng quý lành mạnh là 10,4% trong quý I. Điều này chủ yếu là do khối lượng trái phiếu đang lưu hành thấp hơn trong khu vực chính phủ, ngay cả khi lượng trái phiếu doanh nghiệp gia tăng.
Tính tới cuối tháng 6 năm 2020, trái phiếu chính phủ Việt Nam đã thu hẹp 7,8% so với quý trước, đạt mức 50,1 tỷ USD, chiếm 86,2% tổng lượng trái phiếu toàn quốc. Tuy nhiên, trong quý II, trái phiếu doanh nghiệp đã tăng mạnh ở mức 65,6% so với quý trước, đạt 8 tỷ USD. Nếu tính theo năm, mức tăng trưởng trái phiếu doanh nghiệp đạt 76% vào cuối tháng 6 năm 2020.
Báo cáo cho biết, lượng trái phiếu chính phủ đang lưu hành của khu vực đã đạt 10.500 tỷ USD vào cuối tháng 6, bằng 60,8% tổng giá trị trái phiếu của khu vực. Trong khi đó, trái phiếu doanh nghiệp đạt 6.700 tỷ USD.
Rủi ro tiêu cực lớn nhất đối với sự ổn định tài chính là đại dịch Covid-19 kéo dài và tồi tệ hơn, có thể làm suy yếu triển vọng kinh tế của khu vực. ADB dự báo mức giảm 0,7% cho châu Á đang phát triển trong năm 2020. Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm khả năng bất ổn xã hội do tác động kinh tế của đại dịch, cũng như những căng thẳng tiếp tục giữa Trung Quốc và Mỹ.
Giá USD hôm nay 25/9 Tại các ngân hàng thương mại, sáng nay giá USD biến động nhẹ và giá đồng Nhân dân tệ (NDT) giảm nhẹ. Tỷ giá trung tâm tăng 5 đồng. Ảnh: TTXVN Tỷ giá ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại Tại các ngân hàng thương mại, sáng nay giá USD biến động nhẹ và giá đồng Nhân dân tệ (NDT) giảm nhẹ....