Việt Nam trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu
Ngân hàng Thế giới từng đánh giá Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu. Người dân Việt Nam càng thấm thía điều này khi nhìn lại năm 2020 nhiều thiên tai khốc liệt trên cả ba miền Tổ quốc.
Năm 2020, Việt Nam hứng chịu nhiều thiên tai khốc liệt.
Thiên tai dị thường
Năm 2020, thiên tai diễn ra không theo quy luật, dị thường và khốc liệt. Ngay ngày đầu Tết Nguyên đán 2020, mưa đá, giông lốc đã trút xuống dữ dội ở các tỉnh, thành miền Bắc. Mùa khô năm 2020 thiếu hụt nguồn nước nghiêm trọng ở Đồng bằng sông Cửu Long, xâm nhập mặn xảy ra sớm, lấn sâu và kéo dài nhiều ngày đã vượt năm hạn mặn khốc liệt kỷ lục được ghi nhận vào năm 2016.
Đặc biệt, từ giữa tháng 9 đến giữa tháng 11/2020, bão, mưa lũ, sạt lở đất diễn ra nghiêm trọng ở miền Trung gây thiệt hại lớn về người, tài sản, ảnh hưởng nặng nề đến đời sống và sản xuất của hàng triệu người dân ở khu vực này. Trong vòng 42 ngày, người dân miền Trung đã phải chịu ảnh hưởng trực tiếp của 6 cơn bão và 1 cơn áp thấp nhiệt đới.
Trong đó cơn bão số 9 là một trong hai cơn bão đã đạt đến cấp siêu bão, có cường độ mạnh nhất trong 20 năm gần đây, với gió cấp 14, giật cấp 17, thời gian lưu gió mạnh lên đến 6-7giờ. Mưa lớn kéo dài với tổng lượng mưa phổ biến cao hơn gấp 3 – 5,5 lần so với trung bình nhiều năm. Lũ lớn xảy ra hầu khắp các sông trên toàn quốc, đỉnh lũ phổ biến vượt mức báo động 3 từ 0,5 – 2,0m. Nhiều sông vượt mức lũ lịch sử, ngập lụt sâu diện rộng và kéo dài nhiều ngày.
Theo Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai, trong năm 2020, ở nước ta đã xảy ra 16 loại hình thiên tai. Cụ thể có 13 cơn bão trên biển Đông; 264 trận dông, lốc, mưa lớn trên 49 tỉnh, thành phố, trong đó 9 đợt có diện rộng tại 21 tỉnh, thành phố Bắc Bộ và Trung Bộ; 120 trận lũ, lũ quét, sạt lở đất; 86 trận động đất, trong đó có 2 trận động đất với rủi ro thiên tai cấp 4 tại Mường Tè (Lai Châu) và Mộc Châu, (Sơn La); cùng với hạn hán, xâm nhập mặn nghiêm trọng, sạt lở bờ sông, bờ biển, sụt lún đê biển tại Đồng bằng sông Cửu Long…
Theo Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai, tính đến ngày 4/12/2020, thiên tai đã làm 291 người chết, 64 người mất tích và 876 người bị thương. Thiệt hại về nhà cửa bao gồm 3.427 nhà sập, 333.084 nhà bị hư hại, tốc mái, di dời khẩn cấp; 511.172 lượt nhà bị ngập.
Nông nghiệp bị ảnh hưởng nghiêm trọng, 198.374ha lúa và hoa màu bị thiệt hại, 51.923 gia súc và 4,11 triệu gia cầm chết hoặc bị lũ cuốn trôi. Cùng với đó là 787km đê kè, kênh mương bị sạt lở, hư hỏng; 272,5km bờ biển, sông bị sạt lở; 1.190km đường giao thông bị sạt lở hư hỏng; khối lượng đất, đá sạt lở khoảng 4,1 triệu m3. Ước tính tổng thiệt hại hơn 35.181 tỷ đồng.
Ngay từ đầu năm, theo chỉ đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các cấp, các ngành đã tập trung triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp nhằm kịp thời phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai, bảo đảm sớm ổn định sản xuất và đời sống cho người dân.
Tuy nhiên, các con số thống kê cho thấy, thiên tai diễn ra nghiêm trọng và khốc liệt chưa từng có trong nhiều năm qua. Tình trạng “bão chồng bão”, “lũ chồng lũ” đã tác động, ảnh hưởng đến hầu hết các hoạt động kinh tế – xã hội, thiết chế hạ tầng ở tất cả các tuyến từ vùng biển đến đồng bằng, trung du và khu vực miền núi.
Thích ứng biến đổi khí hậu
Theo Ngân hàng Thế giới, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu (BĐKH). Khu vực ven biển và đồng bằng, đặc biệt là Đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam Việt Nam, thường xuyên chịu tác động nghiêm trọng của nước biển dâng, xâm nhập mặn và các hiểm họa liên quan đến khí hậu như bão và áp thấp nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán. Khu vực miền núi cũng thường xuyên bị lũ quét và sạt lở đất với tần suất ngày càng gia tăng.
Video đang HOT
Ngay những ngày đầu năm 2021, trước thềm Hội nghị cấp cao của Liên Hợp quốc về chống BĐKH (COP 26), dự kiến diễn ra vào tháng 11/2021, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã gửi thông điệp của Việt Nam đến toàn cầu: “Để thích ứng với BĐKH, bên cạnh việc tích cực tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng các-bon thấp, giảm phát thải khí nhà kính, Việt Nam cam kết tăng cường sức chống chịu và nâng cao năng lực thích ứng của cộng đồng, các thành phần kinh tế và hệ sinh thái; giảm nhẹ rủi ro thiên tai và thiệt hại do BĐKH gây ra; lồng ghép thích ứng với BĐKH vào hệ thống chiến lược, quy hoạch quốc gia; đầu tư phát triển nguồn nhân lực, tăng cường nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ hiện đại”.
Cuộc chiến chống BĐKH trên toàn cầu đang đối mặt nhiều thách thức. Đến hạn chót ngày 31/12/2020, hơn một nửa số quốc gia trên thế giới vẫn chưa cập nhật cam kết mới của mình về mục tiêu trung hoà khí thải. Một năm ảm đạm về kinh tế và dịch bệnh đã làm rối loạn các kế hoạch quốc gia về khí hậu theo các cam kết khi ký Thỏa thuận Paris. Theo Liên Hợp quốc, đến ngày 1/1/2021, chỉ hơn 70 trong số 200 quốc gia công bố các mục tiêu mới, trong đó có Việt Nam.
Theo Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO), 3 năm gồm 2016, 2019 và 2020 được ghi nhận là những năm nóng kỷ lục, trong đó năm 2020 đã vượt năm 2016 trở thành năm nóng nhất từ trước đến nay. Đặc trưng thời tiết bất thường của năm 2020 là nền nhiệt cao và cháy rừng liên tục, cùng mùa siêu bão ở Đại Tây Dương, diện tích băng ở Bắc Cực luôn ở mức thấp.
WMO cảnh báo, các loại khí thải tồn tại trong khí quyển luôn ở mức cao kỷ lục, nhất là khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Các hình thái thời tiết cực đoan hình thành bao gồm mưa lớn ở châu Phi, nắng nóng kéo dài và nhiệt độ ấm hơn ở các vùng biển nhiệt đới.
Những thống kê này đã chỉ rõ hiện thực rằng BĐKH có khả năng huỷ hoại cuộc sống và sinh kế của con người. Nếu chúng ta còn chần chừ và không hành động ngay bây giờ thì hậu quả trong tương lai còn khó lường hơn. Đó cũng chính là lời kêu gọi của Thủ tướng Anh Boris Johnson – quốc gia đăng cai tổ chức COP 11 vào tháng 11/2021 với toàn thế giới.
Nhà nông ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu
Nông nghiệp ĐBSCL đã vượt qua một năm đầy khó khăn với thắng lợi kép, gặt hái thành công nhờ tích cực chuyển đổi, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Ứng dụng thiết bị công nghệ thông minh trong sản xuất lúa ở ĐBSCL giúp thích ứng tốt với biến đổi khí hậu. Ảnh: Trung Chánh.
Thắng lợi kép trong thiên tai, dịch bệnh
Theo ông Lê Thanh Tùng, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), năm 2020, Nam bộ gieo sạ lúa ước đạt trên 4,3 triệu ha, tổng sản lượng thu hoạch đạt hơn 25,8 triệu tấn, tăng 134.000 tấn so với cùng kỳ.
Trong đó, vùng ĐBSCL gieo sạ trên 4 triệu ha, đóng góp vào sản lượng chung gần 24,5 triệu tấn. Mặc dù diện tích gieo trồng toàn vùng giảm gần 28.000ha, nhưng nhờ năng suất trung bình tăng 0,76 tạ/ha, nên sản lượng tăng thêm 140.000 tấn so với năm 2019.
Cụ thể, vùng ĐBSCL đã giảm gieo sạ trên 58.000ha lúa trong vụ đông xuân 2019-2020. Diện tích giảm do ảnh hưởng khô hạn, xâm nhập mặn nên phần lớn diện tích lúa được chuyển đổi sang trồng cây hằng năm, cây ăn quả và nuôi trồng thủy sản có nhu cầu nước tưới ít hơn và hiệu quả kinh tế chuyển đổi cao hơn so với trồng lúa.
Ngược lại, vụ lúa thu đông 2020 lịch gieo sạ được kéo dài, diện tích tăng mạnh, nhờ lợi thế về nguồn nước và giá cả tiêu thụ. Diện tích lúa thu đông toàn vùng lên tới trên 800.000ha, tăng 76.000ha, sản lượng đạt 4,4 triệu tấn, tăng 429.000 tấn so thu đông 2019.
"Diện tích lúa thu đông 2020 tăng chủ yếu ở các tỉnh vùng thượng nguồn do năm nay lũ về muộn, lũ nhỏ và giá bán lúa thương phẩm cao. Những tỉnh có điều kiện mở rộng diện tích thu đông thuận lợi như: Tiền Giang tăng trên 28.000ha, An Giang 14.000ha, Kiên Giang 11.000ha, Sóc Trăng 9.000ha, Cần Thơ 5.000ha và Hậu Giang 1.000ha", ông Lê Thanh Tùng cho biết.
Thực hiện giải pháp công trình, giúp ĐBSCL phòng chống hạn mạn hiệu quả, điều tiết nguồn nước phục vụ tốt cho sản xuất. Ảnh: Trung Chánh.
Ông Lê Hữu Toàn, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Kiên Giang cho biết, năm 2020 việc tổ chức triển khai kế hoạch sản xuất các vụ lúa trong điều kiện gặp nhiều khó khăn, bất lợi về thời tiết và dịch bệnh. Tuy nhiên, nhờ bố trí lịch thời vụ sản xuất linh hoạt, hợp lý ở các tiều vùng sinh thái nhằm phòng chống hạn hán, xâm nhập mặn, mưa lũ. Phối hợp chặt chẽ với các sở, ngành liên quan và UBND các huyện trong chỉ đạo sản xuất, phòng chống hạn mặn hiệu quả.
Công tác khuyến nông trong trong sản xuất lúa được triển khai có hiệu quả, với các chương trình, dự án, như: mô hình canh tác lúa tiên tiến, áp dụng cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất. Dự án Cánh đồng lớn đáp ứng vùng nguyên liệu và ứng phó với với biến đổi khí khậu. Đẩy mạnh phong trào giảm lượng giống gieo sạ...
Mô hình canh tác lúa tiên tiến, áp dụng cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất, giúp giảm chi phí sản xuất, rút ngắn thời gian canh tác, né hạn mặn hiệu quả. Ảnh: Trung Chánh.
"Kiên Giang đã có một năm sản xuất lúa gặt hái thắng lợi trên cả ba mặt: diện tích gieo trồng, năng suất và sản lượng đều tăng. Tổng diện tích gieo trồng đạt gần 726.000ha, tăng 2,23% so kế hoạch, năng suất bình quân đạt 6,23 tấn/ha, sản lượng thu hoạch trên 4,5 triệu tấn, tăng gần 5% so với kế hoạch cũng như cùng kỳ năm 2019. Đây là năm tỉnh đạt sản lượng lúa cao nhất trong nhiều năm trở lại đây", ông Toàn đánh giá.
Chuyển đổi nâng cao hiệu quả sản xuất
Theo Cục Trồng trọt, diện tích chuyển đổi cây trồng trên đất lúa năm 2020 của Nam bộ đạt trên 88.000ha, trong đó riêng vùng ĐBSCL chuyển đổi hơn 68.000ha. Chủ yếu là chuyển đổi qua cây hàng năm (gần 63.000ha), còn lại là cây lâu năm và nuôi trồng thủy sản.
Chuyển đổi cây trồng trên đất lúa không chỉ đơn thuần là đáp ứng theo nhu cầu thị trường, cho thu nhập tốt hơn mà cái chính là sản xuất "thuận thiên", thích ứng với biến đổi khí hậu. Ảnh: Trung Chánh.
Việc chuyển đổi này không đơn thuần là đáp ứng theo nhu cầu thị trường, cho thu nhập tốt hơn mà cái chính là sản xuất "thuận thiên", thích ứng với biến đổi khí hậu. Trong nhiều trường hợp thời tiết bất lợi nếu tiếp tục làm lúa sẽ không hiệu quả, thậm chí là thiệt hại, thất mùa.
Về hiệu quả kinh tế, lợi nhuận tăng cao nhất là chuyển đổi từ đất lúa qua trồng cây lâu năm, doanh thu ước đạt hơn 600 triệu đồng/ha, lợi nhuận trên 200 triệu mỗi ha. Trồng cây hàng năm ước tính đạt khoảng 180 triệu đồng/ha, lợi nhuận là trên 110 triệu đồng mỗi ha. Nuôi trồng thủy sản lợi nhuận thu được trên 1 ha ước đạt khoảng trên 40 và lợi nhuận tăng thêm so với trồng lúa là 13 triệu/ha.
Sản xuất luân phiên 1 vụ lúa, 1 vụ tôm được cho là mô hình canh tác thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu và mang lại lợi nhuận tốt hơn cho nhà nông. Ảnh: Trung Chánh.
Ông Lê Hữu Toàn cho biết, từ năm 2017 cho đến nay, tỉnh Kiên Giang đã mạnh dạn chuyển đổi gần 25.000ha, chủ yếu là từ đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cây ăn trái, nuôi trồng thủy sản, đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất và tăng thu nhập cho bà con nông dân.
Chuyển đổi đất lúa sang nuôi trồng thủy sản, mang lại thu nhập cao hơn hẳn so với chuyên trồng lúa. Ảnh: Trung Chánh.
Thực hiện nhiệm vụ tái cơ cấu nông nghiệp, tỉnh Hậu Giang đã chuyển đổi nhiều diện tích đất vườn tạp, đất trồng lúa, trồng mía cho thu nhập thấp sang phát triển cây ăn quả.
Bà Nguyễn Thị Giang, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Hậu Giang, cho biết, toàn tỉnh hiện có gần 42.000ha cây ăn quả, trong đó có khoảng 15% diện tích sản xuất theo tiêu chuẩn GAP, diện tích còn lại sản xuất theo hướng an toàn.
Nông dân Hậu Giang phát triển các vườn mãng cầu xiêm ghép gốc bình bát vừa tăng tính chống chịu hạn, mặn vừa tăng hiệu quả kinh tế cho nhà vườn. Ảnh: Trung Chánh.
Thời gian qua, tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn đã gây rất nhiều khó cho nhà vườn, thậm chí là thiệt hại nặng gây mất mùa, chết cây. Tuy nhiên, nhiều nơi nông dân cũng đã có các giải pháp thích ứng khá hiệu quả, như chủ động tích nước ngọt, áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm, phủ gốc chống thất thoát hơi nước.
Đặc biệt là phát triển các vườn mãng cầu xiêm ghép gốc bình bát vừa tăng tính chống chịu hạn, mặn, vừa tăng hiệu quả kinh tế cho nhà vườn.
Theo TS Võ Hữu Thoại, Phó viện trưởng Viện Cây ăn quả miền Nam, để phát triển nghề vườn thì chọn tạo giống là công tác chiến lược, lâu dài, nhất là phát triển các dòng giống lai mới, có những đặc tính ưu việt hơn bố mẹ. Biện pháp canh tác, cần tạo mương vườn lớn hơn để trữ nước, không xử lý cho cây ra hoa, ra trái vào mùa khô hạn, kết thúc mùa vụ sớm trước khi hạn, mặn xâm nhập, sử dụng một số loại cây gốc ghép có khả năng chịu mặn.
Tuy nhiên, biến đổi khí hậu và thời tiết cực đoan xảy ra với mật độ thường xuyên, hạn hán, xâm nhập mặn những năm gần đây gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất cây ăn quả trong vùng. Vì vậy, cần có những giải pháp căn cơ cả công trình và biện pháp kỹ thuật để phát triển bền vững, hiệu quả hơn.
Nhìn chung, hiện cơ cấu sản xuất nông nghiệp của ĐBSCL đang chuyển dịch theo hướng tăng thủy sản, cây ăn quả và giảm lúa, nhằm "thuận theo tự nhiên" và theo đúng với tinh thuần Nghị quyết 120 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL.
Ba đột phá chiến lược có ý nghĩa, giá trị lâu dài Từ Đại hội lần thứ VI của Đảng, nhất là từ Đại hội XI đến nay, Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc vai trò của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với nguồn nhân lực và hệ thống kết cấu hạ tầng là những cơ sở, tiền đề rất quan trọng đối với sự phát...