Việt Nam tham vọng thu 2,5 tỷ USD nhờ bán một loại hạt được mệnh danh là “nữ hoàng của các loại hạt”
Theo Đề án phát triển bền vững mắc ca giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 vừa được Chính phủ phê duyệt, Việt Nam đặt ra tham vọng đưa mắc ca thành ngành hàng sản xuất hiệu quả.
Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành vừa ký Quyết định số 344/QĐ-TTg ngày 15/3/2022 phê duyệt Đề án phát triển bền vững mắc ca giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Theo đề án này, Việt Nam đặt ra tham vọng phát triển mắc ca thành ngành hàng sản xuất hiệu quả, bền vững, góp phần thực hiện Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ môi trường và đảm bảo quốc phòng, an ninh của đất nước.
Đề án phấn đấu sản lượng mắc ca qua chế biến đạt khoảng 130.000 tấn hạt vào năm 2030, khoảng 500.000 tấn hạt vào năm 2050.
Giá trị kim ngạch xuất khẩu sản phẩm mắc ca đạt khoảng 400 triệu USD vào năm 2030, khoảng 2,5 tỷ USD vào năm 2050, trong đó tỷ lệ sản phẩm mắc ca nguyên vỏ không vượt quá 40%.
Đề án cũng đặt ra mục tiêu quy mô diện tích trồng mắc ca phấn đấu đạt 130.000 – 150.000 ha vào năm 2030, tập trung tại các tỉnh vùng Tây Bắc (khoảng 75.000 – 95.000 ha, chủ yếu tại các tỉnh: Điện Biên, Lai Châu), vùng Tây Nguyên (khoảng 45.000 ha, chủ yếu tại các tỉnh: Lâm Đồng, Đắk Nông, Kon Tum) và một số địa phương có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng thích hợp với yêu cầu sinh thái của cây mắc ca (khoảng 10.000 ha).
Diện tích này được Bộ NNPTNT và các địa phương xác định quy mô và địa điểm cụ thể trên cơ sở đánh giá kỹ lưỡng tiềm năng, năng lực đầu tư, quỹ đất, hiệu quả về kinh tế, xã hội, môi trường và nhu cầu thị trường.
Trên cơ sở tổng kết, đánh giá hiệu quả phát triển mắc ca giai đoạn 2021 – 2030, sẽ định hướng cụ thể về quy mô diện tích và vùng trồng Mắc ca đến năm 2050, phấn đấu đạt khoảng 250.000 ha.
Cây mắc ca phát triển nhiều ở các tỉnh Tây Nguyên. Ảnh: Báo Đắk Lắk.
Đề án cũng khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các cơ sở sơ chế, chế biến mắc ca gắn với vùng trồng nguyên liệu tại vùng Tây Bắc và Tây Nguyên; nâng cấp 65 cơ sở sơ chế, chế biến hiện có, xây dựng mới khoảng 300 – 400 cơ sở sơ chế, chế biến, công suất mỗi cơ sở từ 100 – 200 tấn hạt/năm; tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư xây dựng khoảng 8 nhà máy chế biến sâu các sản phẩm mắc ca có giá trị cao, công suất mỗi cơ sở từ 10.000 – 15.000 tấn hạt tươi/năm tại những địa phương có điều kiện thuận lợi.
Để đạt được mục tiêu này, Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp liên kết với nông dân sản xuất mắc ca thông qua cầu nối hợp tác xã và tổ hợp tác xây dựng vùng trồng mắc ca tập trung, hình thành chuỗi ngành hàng mắc ca từ trồng đến chế biến, tiêu thụ sản phẩm.
Các nhà khoa học hỗ trợ các địa phương nghiên cứu vùng trồng mắc ca thích hợp cho từng dòng/giống; chuyển giao khoa học công nghệ từ khâu trồng, chăm sóc, thu hoạch, sơ chế và chế biến sản phẩm cho các hộ gia đình và doanh nghiệp.
Để phát triển thị trường tiêu thụ, giải pháp đặt ra đối với thị trường trong nước, các địa phương cần hỗ trợ xây dựng thương hiệu sản phẩm mắc ca, gắn với chỉ dẫn địa lý; thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, tuyên truyền, giới thiệu để người tiêu dùng trong nước có đủ thông tin về sản phẩm Mắc ca.
Đối với thị trường xuất khẩu, các địa phương tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các Bộ, Hiệp hội Mắc ca Việt Nam và doanh nghiệp thực hiện các biện pháp mở rộng thị trường xuất khẩu, tháo gỡ rào cản thương mại; tập trung thực hiện các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu chính ngạch sản phẩm nhân và hạt Mắc ca nguyên vỏ, các sản phẩm Mắc ca chế biến sâu vào thị trường các nước…
Video đang HOT
Theo đánh giá của Bộ NNPTNT, mắc ca là đối tượng cây trồng có thể đạt được mục tiêu này, bởi đây là cây cho loại hạt rất tốt với 70% là dầu béo không no. Tại Úc, hạt mắc ca được coi là một loại thuốc bổ.
Do cây mắc ca rất nhạy cảm với điều kiện khí hậu nên trong 10 năm qua, dù biết tiềm năng của mắc ca là rất lớn nhưng thế giới mới phát triển được 490.000 tấn, mắc ca mới chiếm 1% trong số 20 loại hạt phổ biến người tiêu dùng sử dụng.
Cây mắc ca phát triển ở nhiệt độ khoảng 20 – 22 độ C, ở Việt Nam, Tây Bắc, Tây Nguyên là hai vùng rất phù hợp vì nhiệt độ mát mẻ.
Sau 5 năm triển khai quy hoạch mắc ca, đến năm 2020, cả nước có 23 tỉnh trồng cây mắc ca với diện tích trên 16.500ha. Trong đó, 9 tỉnh nằm trong quy hoạch ở 2 vùng Tây Bắc, Tây Nguyên trồng trên 15.400ha, tăng 55% diện tích so với quy hoạch.
Về sản lượng, năm 2020, các tỉnh thu hoạch gần 6.600 tấn hạt tươi, tăng 24,5 lần so với năm 2015. Với giá bán sản phẩm dạng hạt sấy khoảng 200 triệu đồng/tấn, ước tính hơn 4.000 tấn hạt sấy sẽ mang lại giá trị khoảng 788 tỷ đồng.
Đến nay, sản phẩm mắc ca của chúng ta đã xuất khẩu với sản lượng trên 2.400 tấn sản phẩm sấy/năm.
Bán sang Trung Quốc theo đường chính ngạch và tăng chế biến, giá thứ quả trồng nhiều ở Tây Nguyên tăng gấp ba
Nhờ đẩy mạnh xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc và tăng chế biến, giá chanh leo ở nhiều địa phương của Tây Nguyên, tỉnh Sơn La đã tăng từ 7.000 - 8.000 đồng/kg lên 20.000 đồng/kg.
Xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc, chất lượng là ưu tiên hàng đầu
Đó là nhận định của nhiều doanh nghiệp tại cuộc họp của Bộ NNPTNT về tình hình xuất nhập khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc ngày 9/3.
Theo đó, bà Nguyễn Thị Tuyết Ngọc, Giám đốc Công ty CP Chuỗi nông sản thực phẩm Việt cho rằng, muốn chuyển từ xuất khẩu tiểu ngạch sang chính ngạch, chất lượng sản phẩm là yếu tố hàng đầu.
Nhiều doanh nghiệp Trung Quốc sẵn sàng trả ngay 100% tiền nhưng họ đòi hỏi chất lượng sản phẩm phải tốt - bà Ngọc nói.
Để đảm bảo yêu cầu về chất lượng, theo bà Ngọc, doanh nghiệp Việt Nam phải có chuỗi liên kết, nguồn cung ổn định. Điều đó có nghĩa doanh nghiệp phải có ký kết hợp đồng liên kết với nông dân trong bao tiêu sản phẩm. Bên cạnh đó, yếu tố quan trọng nữa là đẩy mạnh chế biến sâu.
Bộ trưởng Bộ NNPTNT Lê Minh Hoan nhấn mạnh, việc chuyển từ xuất khẩu tiểu ngạch sang xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc là cuộc cách mạnh cần có sự kiên trì, sẵn lòng và sẵn sàng của cả hệ thống sản xuất, thương mại. Ảnh: P.V
"Ví dụ, Trung Quốc là thị trường ưa chuộng trái vải khô. Nếu Việt Nam có đủ doanh nghiệp chế biến sâu triển khai và xuất khẩu vải khô thay vì xuất khẩu tươi sang Trung Quốc, áp lực tiêu thụ sẽ giảm đi rất nhiều", bà Ngọc dẫn chứng.
Đồng quan điểm, ông Võ Quan Huy, Giám đốc Công ty TNHH Huy Long An cho rằng, Trung Quốc đã có sự chuẩn bị sớm để chuyển nhập khẩu từ tiểu ngạch sang chính ngạch. Thị trường này cũng ngày càng chuẩn hóa tiêu chuẩn hàng hóa nhập khẩu.
Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt dường như chưa có sự sẵn sàng. Mặc dù Việt Nam có nhiều sản phẩm thị trường Trung Quốc có nhu cầu cao, nhưng để xuất khẩu được đòi hỏi doanh nghiệp phải kiện toàn cách kinh doanh, đáp ứng được điều kiện nhập khẩu.
Nhìn từ quả chanh leo, ông Đinh Cao Khuê, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần thực phẩm Đồng Giao (DOVECO) cho biết, năm 2020, xuất khẩu tiểu ngạch quả này chiếm 75%, nhưng năm 2021 chỉ còn 25%. Nhờ tăng chế biến nên giá chanh leo đã lên 20.000 đồng/kg so với trước đây chỉ từ 7.000 -10.000 đồng/kg. Cùng với đó, sản phẩm chế biến cũng được tiêu thụ tốt.
Đối với quả thanh long thì xuất khẩu tươi quá nhiều, trong khi chế biến quá ít. Đơn cử như tại Bình Thuận, trong số hơn 200 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, chỉ có khoảng 15% theo đường chính ngạch.
Diện tích trồng thanh long cũng tăng nhanh và rất cần chuyển đổi một phần diện tích sang các loại cây trồng khác. Nhiều sản phẩm như: chuối, xoài, dứa, chanh leo... có thể xuất khẩu, nhưng phải thực hiện đúng quy trình, nếu xuất khẩu tươi khó thì chuyển sang chế biến.
Người dân thị trấn Tân Uyên (huyện Tân Uyên, Lai Châu) kiểm tra chanh leo gần vào vụ thu hoạch. Ảnh: laichau.gov.vn.
"Cần chuyển sang chính ngạch càng sớm càng tốt, mọi vấn đề trong thương mại sẽ minh bạch. Để xuất khẩu chính ngạch, trước tiên phải xuất phát từ chính mình và làm phải chuẩn. Một số doanh nghiệp Trung Quốc chỉ thích đi chính ngạch với doanh nghiệp lớn", ông Đinh Cao Khuê chỉ rõ.
Ông Đinh Cao Khuê cũng kiến nghị Bộ NNPTNT phối hợp với Bộ Nội vụ củng cố các hiệp hội ngành hàng để hiệp hội thực sự hoạt động hiệu quả. Bởi, hiện nay một số hiệp hội hoạt động không hiệu quả, còn xa rời thông tin thị trường...
Ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam cho rằng, Trung Quốc là thị trường lớn, yêu cầu nghiêm ngặt. Những chính sách, cách tiếp cận đang làm tốt để xuất khẩu sang các thị trường như: EU, Nhật Bản... là tính hệ thống. Do đó, việc quản lý chất lượng sản phẩm sang Trung Quốc cũng phải theo hệ thống.
Đàm phán mở thêm cửa khẩu xuất nhập khẩu chính ngạch với Trung Quốc
Số liệu mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy, 2 tháng đầu năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu nông, lâm, thủy sản Việt Nam-Trung Quốc đạt hơn 1,83 tỷ USD, giảm 1,7% so với cùng kỳ năm 2021.
Trong đó, xuất khẩu đạt 1,3 tỷ USD, giảm 7,4%; nhập khẩu đạt 515 triệu USD, tăng 16,6%.
Năm 2021, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu nông, lâm, thủy sản Việt Nam-Trung Quốc đạt 12,6 tỷ USD, tăng 18,39 % so với năm 2020.
Ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NNPTNT) cho biết, hiện nay xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc đang đối diện không ít thách thức.
Việc nhập khẩu các mặt hàng ngoài danh mục được xuất khẩu chính ngạch bị coi là buôn lậu và áp dụng các chế tài tịch thu hàng, bắt giữ người, phạt tiền và có thể truy cứu trách nhiệm.
Bên cạnh đó, hoạt động thương mại biên mậu ưu đãi 8.000 tệ/người/ngày cho cư dân biên giới được quản lý chặt chẽ hơn về chủng loại hàng, số lượng mỗi lượt giao hàng. Trung Quốc kiểm soát chặt cửa khẩu, lối mở do đó, thời gian qua một số mặt hàng (như sầu riêng, chanh leo) vẫn xuất qua các đường mòn, lối mở theo phương thức trao đổi cư dân biên giới, nay cũng không thể nhập khẩu vào Trung Quốc.
Phần lớn sản lượng thanh long của Bình Thuận xuất khẩu sang Trung Quốc theo đường tiểu ngạch. Ảnh: Báo Bình Thuận.
Đáng chú ý, lãnh đạo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản nhấn mạnh: Trung Quốc tiếp tục quản lý chặt về truy xuất nguồn gốc, tăng cường và siết chặt quản lý xuất nhập khẩu biên mậu đối với các mặt hàng nông sản, hoa quả của Việt Nam.
Một số loại nông sản của Việt Nam như: bưởi, dừa, chanh leo, roi, sầu riêng, sắn lát, thạch đen... khó xuất khẩu được theo hình thức biên mậu tại các cửa khẩu phụ mà trước đây Trung Quốc đã cho phép nhập khẩu.
Đặc biệt vừa qua, Trung Quốc tiếp tục thực hiện chính sách "Zero Covid-19", thặt chặt kiểm soát, phòng chống dịch covid-19 trên cả bao bì hàng nông sản, hạn chế lượng thông quan.
Điều này gây ra ùn tắc cục bộ tại khu vực cửa khẩu biên giới với Trung Quốc, có thời điểm ngừng thông quan tại một số cửa khẩu do phát hiện Covid-19 đối với người và cả trên hàng hóa khi thông quan. Mở thêm cửa khẩu xuất nhập khẩu chính ngạch.
Dễ thấy, Trung Quốc đã, đang và sẽ tiếp tục là thị trường xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản hàng đầu của Việt Nam.
Để tháo gỡ những khó khăn trong xuất khẩu sang thị trường này, dần "xoá sổ" tình trạng hàng hoá ùn tắc tại các cửa khẩu biên giới phía Bắc, chuyển từ xuất khẩu tiểu ngạch sang chính ngạch là điều không thể trì hoãn thêm nữa.
Về định hướng và lộ trình chuyển xuất khẩu nông sản tiểu ngạch sang chính ngạch thời gian tới, Bộ NNPTNT đề nghị Bộ Công Thương, Bộ Ngoại giao phối hợp với các bộ, ngành tăng cường đàm phán về mở thêm các cửa khẩu thực hiện thông quan, xuất nhập khẩu chính ngạch.
Mở thêm các hình thức xuất khẩu chính ngạch qua đường sắt, đường biển; hợp tác hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, kết nối giữa các tỉnh biên giới với Trung Quốc.
Đồng thời, kiến nghị Bộ Công Thương phối hợp với các bộ ngành, địa phương biên giới hiện đại hóa, điện tử hóa hệ thống thông tin thị trường để kịp thời cung cấp tới các địa phương, hiệp hội doanh nghiệp về nhu cầu, giá cả, thay đổi chính sách... của thị trường Trung Quốc; phát triển các sàn giao dịch, hình thức thương mại điện tử đối với hàng nông sản, xuất khẩu sang Trung Quốc.
"Bộ NN&PTNT cũng sẽ phối hợp với các bộ, ngành đàm phán mở rộng danh mục hàng hóa nông sản, danh sách doanh nghiệp được xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc; xây dựng "Đề án xuất khẩu nông, lâm, thủy sản bền vững sang thị trường Trung Quốc" trong bối cảnh hiện nay", đại diện Bộ NN&PTNT nêu rõ.
Phát biểu tại cuộc họp, Bộ trưởng Bộ NNPTNT Lê Minh Hoan nhấn mạnh, việc chuyển từ xuất khẩu tiểu ngạch sang xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc là cuộc cách mạnh cần có sự kiên trì, sẵn lòng và sẵn sàng của cả hệ thống sản xuất, thương mại.
Do đó, phải có lộ trình để tổ chức lại sản xuất, thị trường, ngành hàng và cả hiệp hội ngành hàng. Nếu không tổ chức sản xuất thì sẽ không chuẩn hóa được vùng nguyên liệu, không truy xuất được nguồn gốc sản phẩm... và không có sản phẩm để đưa vào xuất khẩu chính ngạch.
Theo Bộ trưởng Lê Minh Hoan, việc chuyển đổi hình thức xuất khẩu này đặt ra nhiều vấn đề giữa mong muốn và thực trạng. Bởi, thời gian vừa qua ngành vẫn còn sản xuất để xuất khẩu tiểu ngạch chứ chưa phải sản xuất để xuất khẩu chính ngạch.
Bộ trưởng Lê Minh Hoan: Ngành điều trải qua 1 năm đặc biệt, phải nâng cao giá trị hơn nữa Ngành điều phải nâng cao giá trị của hạt điều Việt Nam hơn nữa. Đây là đề nghị của Bộ trưởng Bộ NNPTNT Lê Minh Hoan tại Đại hội Hiệp hội Điều Việt Nam (Vinacas) nhiệm kỳ 2021 - 2026 tổ chức tại TP.HCM, ngày 26/2. Ngành điều Việt Nam trải qua 1 năm đặc biệt Ông Nguyễn Văn Công - Chủ tịch...