‘Việt Nam còn nhiều quỹ đất để trồng 1 tỷ cây xanh’
Việt Nam còn khoảng 600.000 ha có thể trồng rừng và mục tiêu trồng 1 tỷ cây xanh trong 5 năm là “hoàn toàn khả thi”.
VnExpress phỏng vấn GS.TS Vương Văn Quỳnh, nguyên Viện trưởng Sinh thái rừng và Môi trường (Đại học Lâm nghiệp) xung quanh đề xuất của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc về việc “trồng 1 tỷ cây xanh trong 5 năm tới”.
- Ông nhận xét như thế nào về tính khả thi của mục tiêu nêu trên?
- Tôi cho rằng mục tiêu này rất khả thi, tất nhiên là với quy mô lớn thì việc tổ chức cần chặt chẽ, chương trình thực hiện cần cụ thể để đạt được hiệu quả tốt nhất.
Rừng trồng mật độ thấp khoảng 1.600 cây mỗi ha, người dân thường trồng rừng sản xuất với khoảng 2.500 đến 3.000 cây mỗi ha, thậm chí rừng ngập mặn có thể trồng với mật độ 3.000 đến 4.000 cây mỗi ha. Nếu trồng 1 tỷ cây xanh thì tương đương với khoảng 300.000 đến 500.000 ha rừng tập trung.
Trước đây Việt Nam còn hàng triệu ha đất lâm nghiệp nhưng chưa có rừng. Vài năm gần đây, việc trồng rừng tốt hơn, nhưng theo tôi vẫn còn khoảng từ 600.000 – 700.000 ha đất chưa có rừng có thể trồng được. Như vậy quỹ đất vẫn còn nhiều để thực hiện mục tiêu 1 tỷ cây xanh.
GS.TS Vương Văn Quỳnh. Ảnh: Gia Chính
Thực tế mỗi năm Việt Nam vẫn đặt mục tiêu trồng khoảng 200.000 ha rừng nên có thể khẳng định chúng ta đủ năng lực để thực hiện đề xuất của Thủ tướng. Ngoài diện tích đất lâm nghiệp chưa có rừng, chúng ta còn có thể trồng được cây gỗ ở các đường đi, xung quanh khu dân cư, nhà máy, ngay cả đồng ruộng cũng có thể trồng những dải rừng chắn gió. Tính bình quân mỗi người trồng khoảng 10-20 cây xanh thì đây không phải con số quá lớn.
- Nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng rừng tự nhiên giúp giảm nhẹ thiên tai hơn nhiều so với rừng trồng. Ông nghĩ sao?
- Nói về khả năng giảm nhẹ thiên tai thì phải phân tích khả năng giữ nước của đất. Nhiều người tưởng rằng tán cây, thảm khô giữ nhiều nước nhưng thực tế không phải như vậy. Khối lượng nước giữ lại trên tán cây chỉ hơn 2 lần so với khối lượng của lá, tức là 1 ha rừng chỉ giữ được 30-50 m3 nước, tương tự là khối lượng nước giữ được ở thảm thực vật bên dưới.
Nhưng trong đất chứa được rất nhiều nước. Trong các loại rừng tự nhiên ở Việt Nam, chỉ tính từ 70 cm từ lòng đất lên mặt đất với 1 ha đã chứa được 2.000 đến 3.500 m3 nước. Một ha rừng tương đương với hồ chứa khoảng vài triệu khối.
Rễ cây trong rừng cắm xuống đan vào nhau. Với cây gỗ tốt sống lâu năm thì rễ của chúng găm xuống khá sâu đến tận lớp đá đang tơi rã phía dưới, qua đó giữ đất không bị trượt. Nhưng khi khai thác rừng hoặc trồng rừng theo kiểu công nghiệp (rừng sản xuất) thì mưa xuống làm tan hạt đất ra. Những hạt mịn (sét) sẽ theo nước xuống dưới, ở điểm bắt đầu thay đổi về độ dốc hoặc gặp chướng ngại, chúng sẽ tích lại và tạo thành các lớp giữ nước tạm thời.
Mưa tiếp tục đổ xuống, nước không thoát đi được sẽ tạo thành các túi nước trong đất, cộng với việc đất không được giằng giữ bằng rễ cây, rất dễ xảy ra tình trạng sạt lở, khi trượt một chỗ sẽ kéo theo các điểm trượt khác giống như hiệu ứng domino.
Video đang HOT
Rừng trồng tại ĐH Lâm Nghiệp sau gần 30 năm đã có thảm thực vật như rừng tự nhiên. Ảnh: G.N
Khả năng giữ nước của rừng công nghiệp, rừng sản xuất kém hơn rừng tự nhiên vì cây của rừng mất đi do khai thác hoặc phá thì mặt đất trơ trụi, quá trình xói mòn và rửa trôi sẽ làm cho đất bị chai cứng, khả năng thấm và trữ nước kém
Đồng thời rễ bị mục nát, không còn khả năng giữ các lớp đất lớp đất. Khi trồng rừng mới lên, rễ chưa được củng cố nhiều, cây có thể mọc nhanh nhưng khả năng giữ đất kém. Đặc biệt quan trọng là nước mưa đập vào lá cây, rồi đập xuống đất vẫn còn rất mạnh, nếu không có thảm thực vật ở dưới thì hạt nước rơi xuống sẽ làm tơi rã đất, những hạt đất nhỏ sẽ theo dòng nước chui xuống dưới nêm vào các phần rỗng trong đất, làm cho đất trở nên bí chặt, giảm đáng kể khả năng thấm và chứa nước.
So sánh khả năng giữ nước giữa hai loại rừng, chúng ta hình dung nếu rừng tự nhiên như một cái bể chứa được 10 phần nước, thì rừng trồng chứa được khoảng 6 đến 8 phần. Đây không phải chênh lệch quá nhiều, tuy nhiên con số nhỏ này đưa đến hiệu lực rất khác nhau. Khi mưa xuống nếu nước giữ được trong đất, sẽ không có lũ lụt. Còn nếu vượt quá khả năng chứa, giống như mái nhà nước rơi xuống chảy đi ngay, tạo ra lũ. Rừng giúp giảm số lần xuất hiện lũ (tỷ lệ giảm khoảng 20-30% theo nghiên cứu), không có rừng thì trận mưa bé cũng nguy cơ thành lũ.
Quan trọng hơn là rừng giúp giảm đỉnh lũ (mực nước cao nhất trong một trận lũ), nghĩa là khi mực nước đã cao rồi, lên một khoảng nữa là có thể vỡ đê thì rừng giữ nước sẽ giảm nguy cơ này.
Nếu trồng 1 tỷ cây xanh thì mật độ che phủ cũng không tăng nhiều, chỉ khoảng 2%. Nhưng quan trọng hiệu quả về môi trường có thể gấp nhiều lần so với tỉ lệ trồng. Mất khoảng ba năm để rừng trồng có thể phát huy hiệu quả phòng hộ và khoảng 20 năm để có thể được như rừng tự nhiên.
- Ông nhận xét như thế nào về thực trạng rừng Việt Nam hiện nay và Chính phủ nên tập trung trồng rừng ở những khu vực nào?
- Việt Nam có 14,6 triệu ha rừng, trong đó 4,3 triệu ha rừng trồng, còn lại là rừng tự nhiên. Độ che phủ rừng hiện tại của nước ta hơn 41%, con số này không phải là ít. Nếu so với Campuchia, Lào thì họ nhiều hơn với tỉ lệ lần lượt là 58%, 68%. Nhưng Trung Quốc, Ấn Độ chỉ hơn 21%.
Theo nghiên cứu, cần tối thiểu 33% diện tích lãnh thổ là rừng để có thể đảm bảo việc phòng hộ. Con số này tương ứng với nghiên cứu của Ấn Độ. Có thể thấy tỉ lệ che phủ rừng của Việt Nam đang nhiều hơn con số này. Tuy nhiên, quan trọng là rừng hiện phân bố chưa đồng đều, một số nơi cần độ che phủ cao hơn.
Ví dụ như các tỉnh như Lai Châu, Sơn La, Điện Biên cần tỷ lệ che phủ rừng khoảng 60% trở lên, nhưng một số tỉnh độ dốc thấp, địa hình ít chia cắt như Phú Thọ, Thái Nguyên, Quảng Ninh cần tỷ lệ che phủ rừng khoảng 20-30%, các tỉnh đồng bằng ven biển chỉ cần tỷ lệ che phủ rừng 5-10%.
Trước mắt chúng ta cần xác định các vùng có nguy cơ sạt lở, lũ quét cao để ưu tiên trồng rừng. Chính phủ nên lên kế hoạch trồng rừng theo cấu trúc rừng tự nhiên, nhiều loài, nhiều tầng lớp và không phát quang thảm thực vật.
- Theo ông, để thực hiện mục tiêu trồng 1 tỷ cây xanh thì Việt Nam nên trồng những loại cây nào?
- Những loài cây trồng cho phòng hộ, giảm thiểu lũ quét, sạt lở đất nên là cây bản địa đa tác dụng như: dẻ, trám, sấu, lát hoa, re gừng, lim xanh, ràng ràng mít, pơ mu, hoàng đàn, vù hương, táo mèo, giổi.
Ở miền núi có thể thêm như sến, mật, táu, trầm hương, vàng tâm, gụ, chò nâu, xoan đào. Dưới thảm thực vật có thể trồng thêm sâm, ba kích, sa nhân, thảo quả. Đây hầu hết là những cây lâu năm có có rễ sâu và cứng chắc, chịu được đất khô hạn tăng cường khả năng giằng giữ đất.
Các cây trồng ven biển cần có rễ ăn sâu, rộng, thân khỏe phân bố cành đều trên thân làm cho khả năng chắn sóng hiệu quả như: đước, bần, mấm, trang, sú, vẹt.
Cây trồng đô thị được chọn là những cây sống lâu năm, thường xanh, tán đẹp, hoa đẹp, thơm, rễ sâu có khả năng chống gió bão, ít sâu bệnh, không có nhựa hoặc hương độc, che bóng và giữ bụi tốt như: ngọc lan, bằng lăng, phượng, móng bò…
Trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội hôm 10/11, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho hay, ngay từ đầu nhiệm kỳ, ông đã yêu cầu đóng cửa rừng tự nhiên và “cần tiếp tục nhất quán quan điểm này”.
Theo ông, dù độ che phủ rừng của Việt Nam đã tăng trở lại, khoảng 42% song so với nhiều nước thì vẫn còn thấp nên cần phải “tiếp tục trồng cây gây rừng”.
Lãnh đạo Chính phủ đề xuất sáng kiến trồng 1 tỷ cây xanh trong 5 năm tới, trong đó có trồng cây ở các khu đô thị.
Chuyên gia: 'Mất rừng tự nhiên là một trong nguyên nhân sạt lở núi'
Mưa lớn và kéo dài, địa hình dốc, mất rừng tự nhiên... là những nguyên nhân dẫn đến tình trạng sạt lở đồi núi nghiêm trọng ở miền Trung vừa qua.
Ông Trịnh Xuân Hòa, Phó viện trưởng Khoa học Địa chất và Khoáng sản (Bộ Tài nguyên và Môi trường), đơn vị thực hiện đề án "Điều tra, đánh giá và phân vùng cảnh báo trượt lở đất đá các vùng miền núi Việt Nam", trả lời VnExpress về tình trạng sạt lở đất ở miền Trung thời gian qua.
- Đề án do các ông thực hiện đã đánh giá và đưa ra những cảnh báo như thế nào về sạt lở đất đá ở miền Trung?
- Đề án được làm từ năm 2012 , hiện đã lập được 25/37 bản đồ hiện trạng cấp tỉnh; 15/37 bản đồ phân vùng cảnh báo sạt lở, mức độ cảnh báo đến từng xã với khoảng 15.000 điểm trượt lở. Mặc dù bản đồ cảnh báo hiện chưa hoàn thành, tôi nghĩ rằng các cấp địa phương có thể dựa vào đó đưa ra được phương án phòng tránh hợp lý, hạn chế được phần nào thiệt hại.
TS Trịnh Xuân Hoà nói về hiện trạng sạt lở đất. Ảnh: Gia Chính
Cụ thể như, Hà Tĩnh được điều tra sạt lở vào năm 2017, chỉ ra các huyện Hương Sơn, Hương Khê, Vũ Quang, Kỳ Anh, Nghi Xuân có hiện tượng trượt lở mạnh mẽ với 235 vị trí, trong đó 4 vị trí rất lớn (20.000 đến 100.000 m3), 73 vị trí lớn (1.000 đến 20.000 m3). Trượt lở chủ yếu xảy ra dọc vách taluy dương của Quốc lộ 8, đường Hồ Chí Minh.
Chúng tôi đã khoanh được 6 vùng cấp I, nguy cơ trượt lở, tai biến địa chất rất cao với diện tích hơn 50 km2; 4 vùng cấp II với diện tích 588 km2, 8 vùng cấp III với diện tích 1.400 km2 và 3 vùng cấp IV với diện tích 963 km2.
Quảng Bình cũng được điều tra sạt lở năm 2017, với 128 điểm sạt được nghiên cứu. Quy mô lớn có 15 điểm, 74 điểm quy mô nhỏ và 39 điểm quy mô trung bình.
Đề án khoanh vùng được 3 diện tích có nguy cơ xảy ra trượt lở đất đá cao và ảnh hưởng trực tiếp đến công trình xây dựng, đời sống dân sinh, bao gồm khu vực xã Kim Thủy, huyện Lệ Thủy với diện tích 80 km2; khu vực dọc quốc lộ 12A và đường liên thôn xã Dân Hóa, huyện Minh Hóa với diện tích khoảng 9,5 km2; khu vực dọc theo đường liên thôn đi vào bản Si, xã Trọng Hóa, huyện Minh Hóa với diện tích khoảng 7,5 km2.
- Ba tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, nơi vừa xảy ra các vụ sạt lở đồi núi nghiêm trọng, được nghiên cứu như thế nào trong đề án?
- Quảng Trị nghiên cứu hiện trạng năm 2018 với 241 vị trí sạt lở đất đá được xác định, 142 vị trí có quy mô nhỏ, 68 vị trí quy mô trung bình, 27 vị trí quy mô lớn, 2 vị trí quy mô rất lớn và hai vị trí quy mô đặt biệt lớn. Trượt lở đất đá thường xảy ra dọc hành làng đường HCM. Theo nghiên cứu, mức độ sạt lở ở Quảng Trị không cao cả về số lượng và mật độ, tuy nhiên mức độ trượt lở ở những địa bàn cụ thể lại rất cao, ví dụ như huyện Hướng Hoá có 147 điểm sạt lở (chiếm 61%).
Thừa Thiên Huế được khảo sát năm 2019 , ghi nhận 151 vị trí có biểu hiện trượt lở, 205 vị trí đã xảy ra trượt lở. Trong đó, bốn vị trí có quy mô đặc biệt lớn (trên 100.000 m3), 61 vị trí có quy mô lớn. Trượt lở ở đây thường xảy ra trên các sườn taluy dọc tuyến đường giao thông chính và khu vực dân cư như đường HCM, quốc lộ 74, 71 và 49.
Tương tự Quảng Trị, mức độ trượt lở ở toàn Thừa Thiên Huế không cao nhưng trên địa bàn cụ thể lại rất cao, ví dụ huyện A Lưới có 122 điểm (59%).
Quảng Nam được điều tra sạt lở đất đá vào năm 2019, các huyện Bắc Trà My, Nam Trà My, Tiên Phước, Phước Sơn được đánh giá có nguy cơ trượt lở rất cao. Toàn Quảng Nam ghi nhận 723 vị trí có biểu hiện trượt lở đất đá, 1.286 vị trí đã xảy ra trượt lở. Trong đó, 353 vị trí quy mô nhỏ, 531 quy mô trung bình, 12 vị trí quy mô rất lớn và một vị trí quy mô đặc biệt lớn. Trượt lở ở Quảng Nam tập trung chủ yếu ở đường Hồ Chí Minh, đường Trường Sơn Đông, quốc lộ 40B và trên các sườn trồng cây lâm nghiệp.
- Những nguyên nhân nào dẫn tới tình trạng sạt lở đất đá nghiêm trọng ở miền Trung thời gian qua, thưa ông?
- Về nguyên nhân tự nhiên, mưa là yếu tố đầu tiên kích hoạt sạt lở. Theo nghiên cứu, chỉ cần mưa với độ khoảng 100 mm hoặc nhỏ hơn nhưng kéo dài liên tục hàng chục ngày là đủ khiến đất đá bị bão hòa nước. Đợt vừa qua có thể thấy mưa liên tục nhiều ngày, nhiều nơi thậm chí ghi nhận lượng mưa chưa từng có lên tới hơn 2.000 mm. Lượng mưa lớn như vậy đã gây ra lũ quét kéo theo sạt lở đất.
Ngoài ra, địa hình các tỉnh miền Trung thấp dần ra biển nhưng khá đột ngột, tạo ra độ dốc 14-32 %, cộng với địa chất phức tạp, lớp vỏ phong hóa dày; thảm phủ chủ yếu là rừng trồng, rừng tái sinh cũng là nguyên nhân dẫn tới tình trạng sạt lở nghiêm trọng.
Tiếp theo là các hoạt động nhân sinh như phá rừng, mở đường, xây dựng công trình... đã thúc đẩy quá trình tai biến địa chất. Để làm đường, làm công trình thì phải bạt núi, xẻ taluy dẫn tới mất chân và mất ổn định sườn dốc, tạo độ dốc cao hơn, mất thảm thực vật dẫn tới nguy cơ sạt lở. Thực tế cho thấy các điểm sạt lở tập trung ở sườn các dãy núi, nơi dân cư sinh sống hoặc dọc các tuyến đường, các công trình nhân tạo.
Mất rừng tự nhiên cũng là nguyên nhân dẫn tới sạt lở. Nhiều nơi tỷ lệ che phủ của rừng lên tới 70-80%, nhưng khả năng giữ nước của rừng tái sinh, rừng trồng rất hạn chế so với rừng tự nhiên. Rừng trồng đa phần là keo, sau một vài năm họ thu hoạch rồi lại trồng cây mới khiến liên kết đất yếu, hệ thống rễ cây trồng này cũng không phát triển để giữ lại nước.
Trong một tháng qua đã có 5 vụ sạt lở lớn vùi lấp nhiều người dân, nhiều cán bộ, chiến sĩ. Như ở Quảng Nam, trong hai ngày 28-29/10 đã xảy ra ba vụ sạt lở. Các khu vực này đều có những đặc điểm chung về địa hình, địa chất, rừng và đã có cảnh bảo nguy cơ trượt lở đất đá cao theo bản đồ hiện trạng cũng như bản đồ cảnh báo khi bàn giao về địa phương.
Ví dụ vụ sạt lở đất đá tại thôn 1, xã Trà Vân (Nam Trà My, Quảng Nam) xảy ra trên địa hình có độ cao 600 đến 900 m, khu vực có nguồn gốc bóc mòn, xâm thực, độ dốc sườn tự nhiên 20-30%; thảm thực vật chủ yếu là rừng trồng với độ che phủ khoảng 65-70%; mạng lưới khe suối đa phần ngắn và dốc, thung lũng suối hẹp ở thượng nguồn, tiết diên ngang hình chữ "V" là những yếu tố nguy cơ cao xảy ra trượt lở, đã được cảnh báo
Trong diện tích khu vực trượt lở ở thôn 1, xã Trà Vân có sự phân bố của đứt gãy chạy theo phương Đông Bắc - Tây Nam và gần nút giao với đứt gãy phương Tây Bắc - Đông Nam. Các khe nứt này đã làm cho đá của khu vực bị cà nát, đập vỡ khiến kết cấu của đất yếu, đồng thời tạo điều kiện cho quá trình phong hóa phát triển sâu 20 đến 30 m. Vỏ phong hóa này giàu khoáng sét khi gặp nước sẽ nhanh chóng bị chảy nhão tạo thành lũ quét, sạt lở.
- Đâu là những giải pháp giúp nâng cao khả năng cảnh báo cũng như ứng phó với sạt lở đất đá?
- Giải pháp hữu hiệu nhất là lắp đặt hệ thống máy quan trắc đa thiên tai. Hệ thống này có thể đưa ra dự báo gần như sát với thực tế. Tuy nhiên, hiện cả nước mới chỉ đầu tư được khoảng 10 máy cho những vùng nhất định. Do số điểm có nguy cơ trượt lở ở Việt Nam rất nhiều, nên việc lắp đặt máy móc này ở khắp các nơi là không khả thi.
Trước mắt ta có thể học hỏi kinh nghiệm của Thái Lan là trang bị cho mỗi làng, bản một cột đo mưa, khi mưa đến một mức nhất định thì di chuyển người dân đến nơi an toàn. Phương pháp này vừa đỡ tốn kém và dễ dàng triển khai.
Ngoài ra, hiện bản đồ phân vùng cảnh báo đã được chuyển đến các địa phương, cơ quan quản lý cần dựa trên bản đồ này nhận biết khu vực nguy cơ cao xảy ra trượt lở để không bố trí định cư, định canh và di dời dân đến nơi an toàn.
Ở mỗi địa phương cần lập vùng tương đối an toàn dựa trên bản đồ để khi có nguy cơ xảy ra thiên tai thì dễ dàng sơ tán người dân đến. Đồng thời khi quy hoạch sử dụng đất cần đặt mục tiêu bảo vệ rừng đầu nguồn lên đầu, trồng rừng ở những nơi có nguy cơ xảy ra trượt lở đất đá.
Việt Nam sản xuất kit xét nghiệm nCoV như thế nào? Bốn đơn vị đang nghiên cứu và sản xuất kit xét nghiệm phục vụ mở cửa đường bay, trong đó Việt Á có thể cung ứng 100.000 bộ mỗi ngày. Các kit sẽ dùng xét nghiệm tại sân bay là loại tìm kháng nguyên, tầm soát sự hiện diện của virus gây bệnh tại thời điểm xét nghiệm, có giá trị khẳng định...