Việt- Mỹ: Điều gì sau ‘bước ngoặt lịch sử’?
Với nền tảng quan hệ, lòng tin chính trị và sự song trùng lợi ích nhiều mặt, chúng ta có lý do để lạc quan thận trọng về sự phát triển tiếp tục của quan hệ Việt-Mỹ trong 20 năm tới.
Chuyến thăm Mỹ từ ngày 6-11/7/2015 của TBT Nguyễn Phú Trọng thực sự là một sự kiện, một bước ngoặt có tính lịch sử trong quan hệ Việt-Mỹ. “Lịch sử” ở đây không chỉ ở tính biểu tượng của chuyến thăm và sự đón tiếp “vô tiền khoáng hậu”, mà nằm ở nội dung thực chất trong hàng loạt các vấn đề then chốt được thảo luận giúp tạo nền tảng vững chắc cho quan hệ Việt-Mỹ trong tương lai.
Kết quả vượt kỳ vọng
Chuyến thăm Mỹ của TBT Nguyễn Phú Trọng đã khép lại, nhưng các định hướng và tầm nhìn chung đạt được sẽ giúp tạo nền tảng đưa quan hệ song phương Việt-Mỹ phát triển trong các thập kỷ tiếp theo. Cần nhiều thời gian hơn mới có thể đánh giá hết ý nghĩa, tầm vóc quan trọng và ảnh hưởng của chuyến thăm, nhưng sơ bộ có thể thấy ít nhất 5 kết quả quan trọng sau:
Trước hết, đây là chuyến thăm Mỹ đầu tiên của TBT ĐCS Việt Nam và cũng là lần đầu tiên TT Obama dành nghi lễ đón tiếp nguyên thủ đối với người đứng đầu đảng chính trị của một quốc gia, mà lại là người đứng đầu ĐCS. Điều này cho thấy lòng tin chính trị và sự phát triển vượt bậc của quan hệ Việt – Mỹ.
TT Obama tiếp Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Phòng Bầu dục của Nhà trắng ngày 7/7. (Ảnh: AP)
Thứ hai, hai nhà lãnh đạo Việt-Mỹ đã xem xét và ghi nhận kết quả thực chất đạt được trong nhiều lĩnh vực hợp tác giữa hai nước, từ kinh tế, thương mại đến giáo dục, khoa học và công nghệ; từ môi trường, biến đổi khí hậu đến quốc phòng, an ninh, rồi các lĩnh vực “nhạy cảm” như dân chủ nhân quyền. Thực chất đây chính là sự ghi nhận về sự phát triển “bình thường” trên tất cả các mặt của quan hệ Việt-Mỹ sau 20 năm bình thường hóa. Bên cạnh đó, TBT Nguyễn Phú Trọng và TT Obama cũng bàn về cách thức làm sâu sắc hơn và đa dạng hơn các lĩnh vực hợp tác ghi trong thỏa thuận Đối tác toàn diện.
Điều này cho thấy sự đan xen và song trùng lợi ích giữa Việt Nam và Mỹ trong rất nhiều vấn đề. Lợi ích và sự hợp tác này không chỉ giới hạn trong khuôn khổ quan hệ song phương, mà còn trong các hợp tác khu vực, đa phương và toàn cầu.
Thứ ba, Việt Nam và Mỹ đã trao đổi sâu và đạt được nhận thức quan trọng về một số vấn đề “cốt lõi” có tính lan tỏa, tăng cường lòng tin hoặc giúp thúc đẩy việc đan xen lợi ích tạo nền tảng vững chắc hơn trong quan hệ, như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), hợp tác quốc phòng.
Về TPP, trong Tuyên bố về tầm nhìn chung Việt-Mỹ, hai nước thể hiện muốn hợp tác để sớm hoàn tất tiến trình đàm phán. Là Hiệp định thương mại được coi là có tiêu chuẩn quốc tế cao nhất hiện nay, việc hoàn tất TPP sẽ giúp tạo sự liên kết giữa các thành viên một cách chặt chẽ hơn, giúp thúc đẩy sự thịnh vượng ở châu Á – Thái Bình Dương và sự thịnh vượng chung trên thế giới.
Về hợp tác quốc phòng, Việt Nam và Mỹ đều thể hiện quyết tâm làm sâu sắc và cụ thể hóa các lĩnh vực hợp tác được ghi trong Tuyên bố tầm nhìn chung về quan hệ quốc phòng ký tháng 6/2015. Trong bất kỳ quan hệ song phương nào, hợp tác quốc phòng là chỉ dấu quan trọng đo mức độ lòng tin, là nền tảng xây dựng sự tin cậy chính trị và thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực khác.
Video đang HOT
Thứ tư, hai bên đã đạt được nhận thức mới quan trọng trong các vấn đề liên quan đến an ninh, an toàn hàng hải và tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Đây là những chủ đề được các nhà lãnh đạo Việt-Mỹ quan tâm và được đề cập trong hầu hết các cuộc gặp, các tuyên bố quan trọng.
Điều này cho thấy: (i) Đây là các vấn đề liên quan nhất, ảnh hưởng trực tiếp nhất đến lợi ích quốc gia của Việt Nam và Mỹ; (ii) Đây không chỉ là vấn đề liên quan đến an ninh khu vực, lợi ích của hai nước mà còn liên quan đến thịnh vượng và an ninh toàn cầu; (iii) Việc kêu gọi tôn trọng luật pháp quốc tế và xử lý hòa bình các tranh chấp cho thấy trách nhiệm của Việt Nam và Mỹ đối với các vấn đề toàn cầu.
Thứ năm, hai bên trao đổi thẳng thắn và cởi mở về các khác biệt, các điểm từng được coi là “nhạy cảm”, như tôn giáo, dân chủ, nhân quyền… Điều này cho thấy: (i) Sau 20 năm, quan hệ Việt-Mỹ giờ đây đã trưởng thành, hai bên không còn lo ngại việc đề cập đến các khác biệt sẽ làm ảnh hưởng quan hệ; (ii) Các khác biệt về nhận thức, về cách tiếp cận trong các vấn đề “nhạy cảm” trên là lẽ đương nhiên, do sự khác nhau về thể chế chính trị, trình độ phát triển, khác biệt về văn hóa, tôn giáo… và chúng là một phần của quan hệ; (iii) Điều quan trọng là hai bên coi đối thoại là con đường tốt nhất để thu hẹp khác biệt, để hiểu biết nhau hơn, mở rộng các điểm tương đồng và đưa quan hệ Việt – Mỹ tiến về phía trước.
Điểm quan trọng tạo cơ sở cho lòng tin chính trị hai nước là việc bên cạnh việc tuyên bố tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, thì nay Mỹ còn công nhận thể chế chính trị mà thực chất là tôn trọng sự lựa chọn chính trị của Việt Nam.
Lợi ích song trùng
Như bất kỳ quan hệ song phương nào khác, sự song trùng lợi ích quốc gia trên nhiều vấn đề là một trong những nhân tố quan trọng đưa quan hệ Việt-Mỹ có những bước tiến dài, mà theo như lời TBT Nguyễn Phú Trọng là ít ai có thể hình dung nổi cách đây 20 năm.
Khi lên cầm quyền tháng 1/2009, Chính quyền của TT Obama đã thực hiện chiến lược xoay trục sang khu vực châu Á – Thái Bình Dương và Đông Á, coi quan hệ của Mỹ với khu vực này là ưu tiên hàng đầu, quyết định vào sự “thành, bại” trong việc tiếp tục duy trì vị thế siêu cường số 1 thế giới của Mỹ trong thế kỷ 21.
Trong chiến lược xoay trục, Mỹ thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của Việt Nam. Trước hết, tuy chỉ là nước đang phát triển tầm trung, nhưng Việt Nam lại có nền kinh tế phát triển nhanh, tích cực hội nhập với khu vực và quốc tế. Quan hệ Mỹ-Việt tốt sẽ giúp Mỹ mở rộng thị trường hàng hóa xuất khẩu, dịch vụ và đầu tư.
Bên cạnh đó, Mỹ nhìn thấy vai trò quan trọng cũng như tầm ảnh hưởng quốc tế của Việt Nam. Trong ASEAN chẳng hạn, Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy đoàn kết, thống nhất nội khối làm cho ASEAN ngày một lớn mạnh, đóng vai trò trung tâm trong việc đảm bảo hòa bình và xây dựng cấu trúc khu vực về kinh tế, an ninh, chính trị ở Đông Á. Đặc biệt Mỹ coi Việt Nam là nhân tố quan trọng đóng góp vào sự thịnh vượng chung của khu vực và toàn cầu, cũng như trong việc đảm bảo an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông.
Tuy không chia sẻ hoàn toàn các đánh giá chiến lược với Mỹ, nhưng Việt Nam hết sức coi trọng quan hệ với Mỹ, siêu cường số một có ảnh hưởng toàn cầu và là một trong số ít các quốc gia có ảnh hưởng và tác động lớn, trực tiếp nhất đối với môi trường chiến lược, an ninh và phát triển của Việt Nam.
Về kinh tế-thương mại, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất, đứng thứ 7 trong số các quốc gia và lãnh thổ đầu tư lớn nhất tại Việt Nam. Ngoài ra, Mỹ còn là nước đi đầu trong lĩnh vực GD, KH và CN – những lĩnh vực then chốt đối với tiến trình phát triển và hội nhập của Việt Nam.
Bên cạnh đó là sự tương đồng trong cách tiếp cận giữa hai nước trong vấn đề an ninh, an toàn hàng hải và tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, đặc biệt là các hoạt động đơn phương gần đây nhằm tìm cách thay đổi nguyên trạng. Cuối cùng là sự hợp tác ngày càng sâu rộng giữa Việt Nam và Mỹ trong khuôn khổ song phương cũng như đa phương.
Như vậy, với nền tảng quan hệ hiện nay, cộng với lòng tin chính trị và sự song trùng lợi ích nhiều mặt, chúng ta có lý do để lạc quan thận trọng về sự phát triển tiếp tục của quan hệ Việt-Mỹ trong 20 năm tới.
Hoàng Anh Tuấn (Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Bộ Ngoại giao)
Theo Vietnamnet
Hai kẻ thù cũ và sự khởi đầu mới
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch và Đại sứ William H. Sullivan gặp nhau tại Hà Nội, tháng 5/1989.
Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch (phải) và Đại sứ William Sullivan tại Hà Nội năm 1989.
Bà Virginia B. Foote là Chủ tịch và đồng sáng lập Hội đồng Thương mại Mỹ - Việt. Tổ chức này được thành lập vào năm 1989 và đi vào hoạt động sau khi hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ (BTA) được ký kết và Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO. Bà Foote hiện là Chủ tịch Trung tâm Quốc tế với các dự án nhân đạo của hội cựu chiến binh mỹ trong chiến tranh việt nam (VVAF) tại Việt Nam và tổ chức cựu binh quốc tế campuchia (VIC) ở Campuchia và tiếp tục làm công việc liên quan tới quan hệ Mỹ-Việt bao gồm Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Bà Foote đã vinh dự được nhận Huân chương Hữu nghị của Chủ tịch nước Việt Nam năm 2007.
Dấu mốc 20 năm bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ (1995-2015) chính là dịp để nhìn lại và nhớ đến những kiến trúc sư chính của chặng đường bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và tôi nhớ tới Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch và lãnh đạo cũ của tôi, Đại sứ William Sullivan.
Sinh ra ở hai nửa đối nhau của Trái đất, ông Sullivan và ông Thạch lần đầu tiên gặp nhau với vai trò hai nhà ngoại giao đối lập trong cuộc xung đột kéo dài nhiều thập kỷ ở Đông Dương. Họ đã gặp nhau rất nhiều giờ ở Geneva và Paris và tại các cuộc họp bí mật ở Hà Nội, để đàm phán về hòa bình trong những năm 1960 và 1970. Hai người đàn ông tài năng, dí dỏm và có tầm nhìn này dần trở thành bạn bè của nhau, tạo dựng nên mối quan hệ mà về sau có thể trở thành cầu nối hòa bình giữa hai đất nước.
Trong thư chia buồn của Đại sứ Sullivan gửi bà Phạm Thị Phúc năm 1998, khi chồng bà mất, có đoạn viết: "Trong suốt thời gian 12 năm, khi hai nước còn trong chiến tranh, ông Thạch và tôi thỉnh thoảng vẫn duy trì liên lạc vì mục đích hòa bình. Vào những năm 1972-1973, trong các cuộc đàm phán tại Paris, cuối cùng, cả hai chúng tôi đã có thể đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện Hiệp ước hòa bình.
Trong suốt thời gian đàm phán, chúng tôi đã trở thành những người bạn của nhau. Dựa trên tình bạn này, năm 1989, ông Thạch đã gợi ý hai chúng tôi sẽ cùng nỗ lực để hàn gắn hố ngăn cách giữa hai nước và tạo dựng nền móng cho tình hữu nghị giữa hai dân tộc.
Chúng tôi đã phấn đấu thành công cho mục tiêu này cho đến khi ông mất. Tôi sẽ luôn coi kỷ nguyên mới trong quan hệ Việt-Mỹ là tượng đài cho những công việc mà ông Thạch đã làm".
Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975, ông Sullivan chuyển sang hoạt động trong lĩnh vực đối ngoại khác và rồi nghỉ hưu. Vào giữa những năm 1980, ông tham gia Hội đồng quản trị của Trung tâm Quốc tế (IC) - một trong những viện nghiên cứu ở Washington, DC, nơi tôi đang làm việc. Ông đã trở thành lãnh đạo và người thầy của tôi.
Trong khoảng thời gian đó, Việt Nam bắt đầu thực hiện đường lối Đổi mới. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch là một trong những người có vai trò cho thay đổi chính sách này. Mùa Thu năm 1988, ông Sullivan khá bất ngờ khi nhận được thông tin từ ông Thạch, qua Đại sứ Việt Nam tại London: "Tôi đã nhận được lời mời đến thăm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch ở Hà Nội thông qua Đại sứ Việt Nam tại London. Tôi đã nói sẽ xem xét lời mời này".
Sau tuyên bố mang tính đột phá về việc rút quân đội không điều kiện khỏi Campuchia vào tháng 4/1989 của Việt Nam, ông Sullivan đã gửi thư cho ông Thạch: "Thưa Ngài, bạn của tôi! Cảm ơn ông đã mời tôi đến thăm Việt Nam vào một dịp thuận tiện. Tôi rất vui mừng chấp nhận lời mời này, đặc biệt là khi dường như hiện nay, những sự kiện có thể phát triển theo hướng có thể mang lại việc thiết lập quan hệ chính thức giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Được sự đồng ý của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, chuyến đi Việt Nam của ông Sullivan đã được sắp xếp vào tháng 5/1989. Đó là một chuyến thăm đặc biệt. Ông Sullivan và ông Thạch chất vấn nhau những câu hỏi khó, dằn vặt với nỗi buồn của năm tháng và những cuộc đời bị đánh mất, cười với nhau rằng họ đã già.
Ông Thạch đã rất hào phóng dành thời gian cho chúng tôi, sắp xếp các cuộc gặp với các quan chức mà ông Sullivan đã biết. Chúng tôi đã gặp những nhân vật mới tại Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Hội hữu nghị Việt-Mỹ (VUFO) và các cán bộ của Bộ Ngoại giao Việt Nam.
Ông Thạch đã tổ chức tiệc chiêu đãi chính thức tại Nhà khách Chính phủ ở phố Ngô Quyền, nơi ông Sullivan và ông Henry Kissinger từng ở khi có công việc bí mật đến Hà Nội trước đây. Họ thảo luận về vụ đánh bom hồi Giáng sinh, về nhiều cuộc gặp giữa hai người ở Paris, về con cái...
Sullivan đã rất ngạc nhiên về thực trạng của Hà Nội và giận dữ hỏi ông Thạch: "Những người đàn ông lớn tuổi đã chiến đấu vì cái gì?". Ông Thạch đã lên lớp lại cho ông Sullivan về sự trái đạo lý của chiến tranh và lệnh cấm vận.
Trong lúc bữa tiệc đang diễn ra thì nguồn điện bị cắt khiến tất cả ngồi trong bóng tối chờ người phục vụ dò dẫm đi tìm nến. Ông Sullivan và ông Thạch gần như không dừng nghỉ. Trong bóng tối như hũ nút, chúng tôi lắng nghe họ tranh luận. Họ quyết tâm tìm ra một hướng đi cho tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Ông Sullivan thúc giục chúng tôi nên triển khai ý tưởng thiết lập một hội đồng thương mại và chương trình nghiên cứu sinh.
Tháng 9/1989, sau khi được thành lập, Hội đồng Thương mại Mỹ-Việt đã làm việc với chính quyền Mỹ, hai Thượng nghị sĩ John Kerry và John McCain cùng nhiều thành viên quan trọng khác của Quốc hội, giới học giả, doanh nhân và tổ chức phi chính phủ về nhu cầu bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Chúng tôi đã tham gia sâu vào các vấn đề MIA, các vấn đề hậu quả chiến tranh khác và cả sự khởi đầu của quan hệ kinh tế. Không có gì đáng ngạc nhiên khi sự phản đối cũng rất mạnh mẽ. Như ông Kissinger đã nói với ông Sullivan khi chúng tôi chạm mặt ông ta tại tòa nhà Quốc hội, "Bill, ông sẽ lại bị Việt Nam lừa đấy".
Đến tháng 4/1991, chính quyền Mỹ đã đưa ra cho Việt Nam đề xuất về một tiến trình bình thường hóa gồm bốn giai đoạn. Quá trình này sẽ không thể diễn ra nhanh chóng và có rất nhiều việc phải làm. Nhưng với tầm nhìn và sự miệt mài cống hiến của ông Thạch, cùng rất nhiều người khác, mối quan hệ giữa hai nước đã được xây dựng và tiến tới bình thường hóa vào năm 1995.
Nhờ mối liên hệ với nhau trong năm 1988, ông Thạch và ông Bill Sullivan đã giúp đóng vai trò trong sự đổi thay mang tính lịch sử đối với quan hệ hai nước. Mối quan hệ từ thời chiến tranh của hai ông đã là cầu nối đủ mạnh để giúp xây dựng một con đường mới mà chúng ta tiếp tục theo đuổi ngày hôm nay.
Ngày 14/11/1989, trong thư gửi ông Thạch của ông Sullivan có đoạn viết: "Kính thưa Ngài, bạn cũ của tôi, Chúng ta đều thất vọng vì thất bại của Hội nghị Paris về Campuchia dường như đã làm cản trở, ít ra là tạm thời, quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ... Nhưng chúng tôi rất vui mừng khi lần đầu tiên chương trình học giả thăm lẫn nhau đã được phê duyệt và người đầu tiên sẽ đến vào tháng 1/1990... Nhiều công ty lớn của Hoa Kỳ đã bày tỏ sự quan tâm của họ trong việc thiết lập một tổ chức nhằm chuẩn bị sẵn sàng khi tiến trình bình thường hóa diễn ra... Tôi hy vọng ông đồng ý". Ông Thạch đã phúc thư ngắn gọn vào ngày 19/12/1989: "Thưa ông Sullivan, tôi chắc chắn rằng, những nỗ lực này sẽ đóng góp vào quá trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước chúng ta".
Virginia B. Foote (Chủ tịch và Giám đốc điều hành, Bay Global Strategies, LLC)
Theo Thế giới và Việt Nam
Việt - Mỹ: Hai mươi năm sau bước ngoặt lịch sử Ngày 11/7/1995 đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong quan hệ Việt - Mỹ, khi Tổng thống Bill Clinton và Thủ tướng Võ Văn Kiệt tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Cùng nhìn lại những dấu mốc quan trọng trong hai thập kỷ từ cựu thù đến đối tác toàn diện của hai nước. LTS: Tuần...