Việt kiều trong rừng thẳm
Người Cơ Tu sống hai bên dòng sông A Sáp thuộc hai nước Việt-Lào dọc dải biên giới A Lưới (TT-Huế) và Ka Lô (huyện Kà Lừm, tỉnh Sê Kông, Lào) có chung một già làng. Nhiều người đã được nhập tịch Việt Nam sau 20 năm lang bạt rừng sâu núi thẳm.
Hiện, họ đã từ bỏ cuộc sống du mục và đặt ra quy ước: Ai vào rừng bẫy thú, đốt nương, đánh bắt cá bằng thuốc nổ sẽ bị phạt vạ.
Người Cơ Tu sống ở bản Arooc, Ka Lô (Kà Lừm, tỉnh Sê Kông, Lào) và những người cùng dân tộc mình đang định cư ở các thôn giáp biên giới A Tin, La Tưng, Chi Hòa (xã A Đớt, huyện A Lưới, tỉnh TT-Huế) tự giao kèo với nhau như vậy. Và họ đã làm được.
Gia đình Kê Un sống yên bình trên quê hương.
Những “Việt kiều” che thân bằng lá cây
Kê Un, 35 tuổi, cùng hai người anh em là Kê Ooc, Kê Ai vừa được nhập quốc tịch Việt Nam hồi đầu năm ngoái. Cách đây gần 20 năm, gia đình Kê Un ở thôn Pa E (xã Nhâm, huyện A Lưới). Cuộc sống khốn khó, cả nhà dắt díu nhau lội sông A Sáp qua đất Lào phát nương, làm rẫy. Họ dựng chòi từ những cây tranh, lồ ô, tre nứa… để rồi qua mùa rẫy lại tiếp tục đi tìm vùng đất mới.
Dùng vỏ cây a mâng làm áo quần, hái lá cây lớn làm chén bát, lấy rễ cây làm thuốc, họ sống qua từng con rẫy cho đến khi anh trai của Kê Un mất vì sốt rét và bố Kê Un nằm lại chốn núi rừng. Những thành viên còn lại trong gia đình thất thểu bỏ rừng trở về quê hương. Những Việt kiều sống trong sự đùm bọc của bà con đồng bào Cơ Tu, Tà Ôi ở thôn A Tin, xã A Đớt. “Dân làng cho mình gạo, muối, khoai sắn. Sau đó cho thêm cây giống để làm rẫy, làm ruộng” – Kê Un nói.
Không riêng Kê Un, hơn 200 Việt kiều ở bản Ka Lô (huyện Kà Lừm, tỉnh Sê Kông, Lào) đều được người dân Việt Nam cưu mang, giúp đỡ. Gần 30 năm trước, những người Cơ Tu, Tà Ôi ở A Lưới (TT-Huế) và Tây Giang (Quảng Nam) cắt rừng tiến qua đất Lào tìm cuộc sống mới. Họ tụ tập lại, dựng nên bản Ka Lô. “Chỉ biết phát nương làm rẫy, săn thú, bắt cá kiếm ăn” – Ploong Hiar, một trong những người già nhất bản, kể.
Video đang HOT
Già làng Đặng Sơn Thi (trái) gửi thóc giống cho già Ploong Hiar mang qua giúp dân Ka Lô
Năm 2007, bản Ka Lô vốn nằm sâu trong cánh rừng của dãy Trường Sơn, được di dời ra gần tuyến đường. Vùng định cư mới “chỉ” còn cách trung tâm huyện Kà Lừm 130km. Từ rừng sâu, người dân Ka Lô bồng bế nhau ra vùng đất mới. Cách khu định cư mới của bản Ka Lô chừng 2 giờ băng rừng, thôn A Tin (xã A Đớt) trở thành nơi nghỉ chân của những Việt kiều mới ra từ rừng thẳm. Đối với những Việt kiều che thân bằng lá cây thì hình ảnh những người dân Việt cùng dòng máu Cơ Tu, Tà Ôi mang quần jeans ống loe, đi xe máy như ở một thế giới khác.
Sống hàng chục năm trên đất Lào, ngôn ngữ của họ dần bị mai một. Trong khi trẻ em Cơ Tu ở A Đớt đã có thể nói lau láu tiếng Kinh. Bằng những nét tương đồng còn sót lại trong ngôn ngữ, văn hóa, họ nhanh chóng thấu hiểu hoàn cảnh, cuộc sống của đôi bên. Dân làng A Tin bàn nhau chia một phần lương thực của mình để nuôi những người đồng bào đã nhiều ngày liền băng rừng chỉ ăn lá cây cầm hơi. Hơn một tháng, những người Cơ Tu đất Việt mở rộng tấm lòng, bao dung đón những đứa con lưu lạc.
Khi bản Ka Lô được xây dựng xong, bà con A Tin gom góp các loại cây giống, con giống cho họ mang theo. Người Cơ Tu ở A Tin còn đi theo họ qua đất Lào để hướng dẫn họ gieo hạt, xây dựng cuộc sống trên vùng đất mới. “Chúng tôi còn bày họ cách nấu mì tôm” – già làng Đặng Sơn Thi (thôn A Tin), nói.
Già làng “lưỡng quốc”
“Bà con bên Lào thấy người Việt dùng chất nổ giết hết cá nhỏ cá to. Họ nói nên đặt ra quy ước: dùng chất nổ sẽ bị phạt vạ bò, heo. Dân trong thôn, ai cũng đồng ý. Cá sông Trôn, sông A Sáp lại đầy”. Già làng Đặng Sơn Thi
Già làng Đặng Sơn Thi – đã sống gần 70 mùa rẫy – không thể nhớ hết những lần ông qua đất Lào, khi mang mì tôm, thóc lúa, lúc mang mắm muối, đồ khô cho bà con Việt kiều ở Ka Lô. Bây giờ, cuộc sống của người Ka Lô đã ổn định, không còn du canh du cư, tuy nhiên vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Trẻ em không được đến trường, lúc đau ốm bệnh tật không có bác sĩ, phải băng rừng qua biên giới mới có một trạm xá Quân Dân y do đồn Biên phòng Cửa khẩu A Đớt dựng lên.
“Thỉnh thoảng, người dân Ka Lô lại qua A Tin xin thóc lúa, cây giống” – già làng Đặng Sơn Thi cho hay – “Họ đến nhà người nào ở A Tin, nhà đó sẽ cho. Nếu nhà đó không có, nhà bên cạnh phải có trách nhiệm giúp đỡ. Người Cơ Tu ở Ka Lô chỉ xin đủ, không lấy thừa, bà con mình ai có lòng thì cho thêm. Nhưng đưa nhiều quá họ cũng không lấy”.
Đối với bà con bản Ka Lô bên đất Lào, già Thi và những người dân ở thôn A Tin là chỗ dựa cho họ. Mỗi lời già Thi nói ra đều được người dân hai bên nghe theo răm rắp. Già Thi tham gia cách mạng từ năm 1967, đã có gần 15 năm làm cán bộ xã, Chủ tịch Hội Nông dân xã.
Từ già Thi, những hương ước được cả hai bên đưa ra và thực hiện với sự chứng giám của núi rừng. Không săn bắt thú rừng, không khai thác lâm sản, không chia rẽ Việt – Lào, thậm chí những ứng xử giản đơn như uống rượu không được nói nặng lời, không phá phách cũng được bà con hai bên quy ước với nhau.
Cả làng nghe lời già Thi, bà con Việt kiều ở Ka Lô ai cũng yêu mến gọi già Thi bằng Pả (bố).
Thanh niên Ka Lô qua biên giới giao lưu với những người bạn Việt
Rừng thẳm tình thâm
Có lần chập choạng tối, hai anh em A De, A Zoan ở bản Ka Lô đi đánh cá ở khe Tam Ra trong rừng sâu. A Zoan bị trượt ngã, gãy chân. A De đang luống cuống thì gặp Đặng Sơn Tinh ở thôn A Tin cũng vừa đi đánh cá về. Người thanh niên thôn A Tin liền sơ cứu, chặt cây làm nẹp rồi khiêng chàng Việt kiều A Zoan về trạm xá bên đất Việt. Nằm nghỉ ngơi mấy ngày liền, lúc ra đi, hai anh em A Zoan, A De chỉ biết ôm chặt lấy những người đồng bào thay cho lời cảm ơn.
Kê Un giờ đã có ba đứa con, đứa lớn 15 tuổi. Với Kê Un, năm sào ruộng và những rẫy bắp, rẫy chuối cùng gà, heo đầy chuồng là những thứ mà cách đây mấy chục năm, cả gia đình Kê Un rời bỏ quê hương dấn thân vào rừng để tìm kiếm. “Nay Nhà nước cho nhập quốc tịch, được cấp đất xây nhà, con đi học, ốm đau không phải lo, hai vợ chồng bớt cực khổ” – Kê Un nói.
Theo ông Hồ Minh Đường, chủ tịch UBND xã A Đớt: “Ba thôn giáp biên giới Việt – Lào gồm A Tin, La Tưng và Chi Hòa gồm hơn 230 hộ, trong đó có 7 hộ dân được nhập quốc tịch Việt Nam”.
Kê Un và hai người anh em Kê Ooc, Kê Ai đều lấy vợ Việt. Ở thôn Chi Hòa và thôn A Ngo cũng đã có những người phụ nữ Lào theo chồng về đất Việt sinh sống. Thỉnh thoảng, thanh niên Ka Lô lại băng rừng qua biên giới gặp gỡ đồng bào đất Việt. Những cuộc tình xuyên biên giới nảy nở. Những đứa con mang hơi thở núi rừng được sinh ra như bằng chứng sắt son về tình dân tộc giữa đại ngàn.
“Để hỗ trợ người dân Ka Lô xây dựng cuộc sống mới, cán bộ chiến sỹ ĐBP cửa khẩu A Đớt đã tham gia xây dựng 42 căn nhà, thực hiện nhiều đợt khám chữa bệnh, cấp phát thuốc, chăn màn…, định kỳ hàng tháng cùng đoàn y tế huyện, Sở NN&PTNT cung cấp giống và hướng dẫn bà con các kỹ thuật canh tác hiện đại…” – thượng tá Trần Danh Tuệ, chính trị viên đồn Biên phòng Cửa khẩu A Đớt, cho biết.
Theo Lê Quang Minh (Tiền Phong)
Độc đáo hội Đâm trâu ở Tây Giang
Tây Giang (Quảng Nam) là một huyện miền núi nằm ở phía Đông dãy Trường Sơn, dân số phần đông là đồng bào người Cơ Tu với những tập tục mang tính tâm linh có giá trị văn hóa được thể hiện qua các lễ hội truyền thống.
Già làng cao tuổi nhất đâm nhát giáo đầu tiên
Đồng bào Cơ Tu sống giữa đại ngàn, làm nương, phát rẫy săn bắt để sinh sống nên họ tin vào Giàng (trời) và các đấng thần linh. Và lễ đâm trâu chính là một trong những tín ngưỡng thần linh quan trọng diễn ra vào dịp mừng lúa mới, ngày trọng đại của buôn làng...và là một hình thức sinh hoạt cộng đồng không thể thiếu trong đời sống của người Cơ Tu. Với quan niệm: khi Giàng và các vị thần linh nhận lễ vật, nhất là trâu, thì sẽ giúp dân làng tránh được rủi ro, bệnh tật, tai nạn, mùa màng sẽ bội thu, cuộc sống no ấm trong suốt cả năm.
Buổi chiều trước lễ đâm trâu, các già làng đã tề tựu đông đủ dưới mái nhà Gươl làm lễ mời Giàng, mời thần linh về chứng giám cho lòng thành của dân làng. Từng tốp người tụ về quanh khoảnh sân rộng, họ mang theo gà, đầu lợn, bánh sừng trâu,... đến bên con trâu hiến tế, gửi vào lời khấn thành kính những ước nguyện về một năm sung túc. Dân làng ăn uống, nhảy múa theo tiếng cồng chiêng cho đến khuya. Còn các già làng ngồi khóc tế trâu trắng đêm. Mượn theo hát lý Cơ Tu và tiếng trống đệm các cụ khóc kể thảm thiết: Tiếng khóc vang vọng giữa đại ngàn, xuyên qua màn sương lạnh căm tạo thành một âm thanh kỳ bí. Dường như đất trời đang giao hòa làm một.
Lễ cúng Giàng sáng ngày diễn ra trước lễ đâm trâu
Buổi sáng hôm sau, khi lớp sương lạnh vẫn còn là là trên mặt đất, từ khắp mọi nơi người dân đã dồn cả về quanh cột X'nur. Tiếng khóc trâu đã dứt, thế vào đó là tiếng cồng chiêng vang lên bắt nhịp cho điệu nhảy Tung tung Za-zá của nam nữ thanh niên sau khi già làng có uy tín nhất đến bên cột X'nur làm lễ cúng Giàng. Từng tốp phụ nữ uyển chuyển khép thành vòng tròn cùng nhau nhảy múa quanh con trâu. Ngoài sân, người lớn, trẻ nhỏ đứng xung quanh, vừa xem, vừa hú vang theo nhịp chiêng trống. Sau khoảng một giờ hứng khởi với điệu nhảy "aman", người nhảy đã thấm mệt và con trâu cũng đã bị làm cho... chóng mặt thì một đoàn gồm các già làng cầm trên tay những cây giáo sắc nhọn tiến vào. Nhát đâm đầu tiên bao giờ cũng do già làng uy tín nhất thực hiện, rồi sau đó là những thanh niên dũng mãnh. Bởi sau nhát đâm đầu tiên con trâu phát hoảng, vùng vẫy tìm đường thoát, đó cũng là lúc con trâu trở nên hung dữ nhất. Con trâu quỵ xuống vì kiệt sức rồi tắt thở, người ta lấy chót của đuôi trâu cùng với một con gà trống còn sống mang cúng thần linh. Già làng lấy một ít phần đuôi, gan và vật cúng tung lên cái ổ trên cột X'nur, toàn bộ lọt gọn vào như một điềm báo rằng Giàng đã chấp nhận lễ vật của dân làng. Dân làng reo vui trước điềm lành rồi hân hoan mời khách quý lên nhà Gươl cùng ăn, uống thỏa thích. Mọi người quây quần bên nhau trong ngôi nhà Gươl uống rượu, hát lý, đánh chiêng, thổi kèn, múa tung tung. Cuộc vui cứ thế kéo dài cho tới hết đêm hôm đó.
Tuấn Linh
Theo ANTD
Trải nghiệm văn hóa Cơtu Đi trên đường Hồ Chí Minh huyền thoại. Giữa ngút ngàn xanh của bao la núi rừng Trường Sơn như trong một ca khúc về vùng đất địa linh này, nhạc sỹ Hoàng Vân xúc động trước trời nước mênh mang, miêu tả: "Trời Tây Nguyên xanh / Hồ trong nước xanh / Trường Sơn xa xanh / Ngút ngàn cây xanh...". Tôi...