Viếng thăm ngôi mộ lớn nhất Việt Nam
Nằm lọt thỏm giữa những ồn ào của phố thị, Khu tưởng niệm 2 triệu đồng bào bị chết vì oanh tạc và nạn đói năm 1944 – 1945 ở phường Vĩnh Tuy (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) khiến ai một lần đến cũng không khỏi xót xa, chạnh lòng.
Ngôi mộ chứa hàng vạn sinh linh
Vòng vèo qua hàng loạt ngóc ngách của con đường Kim Ngưu (phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội), tôi bước vào nơi yên nghỉ của hàng vạn đồng bào trong nạn đói kinh hoàng gần 70 năm về trước. Ấn tượng đầu tiên khi đi qua cánh cổng vào khu tưởng niệm là tấm bia đá lớn, khắc bài văn truy điệu “Đồng bào chết đói năm 1945″, của GS Vũ Khiêu: “Một cơn gió bụi vừa tan/Hai triệu sinh linh đã mất/Khí oan tối cả mây trời/Thây lạnh phơi đầy cỏ đất…”.
Có thể nạn đói năm 1945 đã được viết nhiều qua sách vở và các tư liệu lịch sử, nhưng vào Khu tưởng niệm, chứng kiến ngôi mộ khổng lồ được chôn chung cho hàng vạn sinh linh mới thấy sự ám ảnh đền cùng cực. Là người trông coi khu mộ này từ nhiều năm qua, ông Đặng Văn Tuyến cho biết, Khu tưởng niệm trước đây là nghĩa trang Hợp Thiện. Năm 1951, người dân Hà Nội đã tự bảo nhau quy tập hài cốt của những người bị chết đói năm 1945 đưa về đây chôn cất, dựng chung một tấm bia lớn. Khi dân cư đông đúc, cơn sốt đất bùng phát, bãi tha ma với ngôi mộ chôn hàng vạn đồng bào ngày nào bị co hẹp lại chỉ còn 158m2, nằm lọt thỏm giữa những ngôi nhà cao tầng …
Một góc Khu tưởng niệm 2 triệu đồng bào chết vì oanh tạc và nạn đói năm 1944 – 1945. Ảnh: PB
Hơn nửa thế kỷ đã đi qua, cuộc sống đã thay đổi nhiều, nhưng khi nhìn lên những hình ảnh được treo trong ngôi nhà nhỏ của Khu tưởng niệm mới thấy sự xót xa, ám ảnh. Trong hàng chục bức ảnh mà nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh để lại là cảnh những đứa trẻ nhỏ gầy trơ xương ngồi với vài ông già đang ngấp nghé giữa sự sống và cái chết; là cảnh người dân đang đào những hố rộng chôn người tập thể; là hình ảnh của người kéo chiếc xe ngổn ngang xác chết, hay những núi xương trắng xóa đến rợn người…
Năm 2001, 3 sinh viên của Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội đã thực hiện đề tài “Cải tạo không gian tưởng niệm đồng bào chết vì nạn đói năm 1944 -1945″. Sau đó, vào tháng 9/2003, TP Hà Nội quyết định đầu tư cải tạo, xây dựng lại khu vực này, đến 12/12/2006 thì tổ chức gắn biển thành di tích cách mạng. Trong đó, “bể xương” chứa hàng vạn hài cốt của đồng bào nằm ở chính giữa.
Ông Tuyến cho biết, từ những năm đầu của thập niên 90, “bể xương” vẫn còn nằm lộ thiên nên rất ít người ghé qua vì sợ. Sau này, mọi người xây dựng thành bể kiên cố, chỉ bớt lại một lỗ thông âm – dương nhưng vì nước mưa tràn vào và gây ô nhiễm, nên đã bịt kín, chỉ trừ một lỗ thông rất nhỏ ở góc khuất.
Là người “vì cái duyên” mà đến trông coi Khu tưởng niệm, ông Tuyến mong muốn ai đó bỏ thời gian để viết một cuốn sách nhỏ về nơi này. Nơi đã ghi dấu tích một thời khó khăn, vất vả của đồng bào ta, là chứng tích ghi lại tội ác tày trời của thực dân Pháp và phát xít Nhật của thế kỷ trước. Nhưng qua đó để thấy rằng, bằng sức mạnh của dân tộc, chúng ta đã vượt qua được tất cả để dành chiến thắng lịch sử Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Video đang HOT
Những hình ảnh tư liệu ghi lại lịch sử đau thương về nạn đói. Ảnh:Võ An Ninh
Đừng quên quá khứ
Điều đặc biệt đối với mọi người đến viếng thăm Khu tưởng niệm có thể ám ảnh bởi những hình ảnh mang tính hiện thực nhưng lại không cảm thấy u ám hay ghê sợ bởi ngôi mộ chôn cất hàng triệu sinh linh này. Khu tưởng niệm cũng như ngôi mộ là một không gian yên lặng, tĩnh mịch, bước vào đây dường như có thể rũ bỏ được cái không khí ồn ào, cuộc sống xô bồ của phố thị tấp nập.
Trong một cuộc trả lời phỏng vấnbáo chí, GS.Vũ Khiêu, người viết bài văn tế xúc động khi xưa, cho rằng: Đây là vụ chết chóc lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, thậm chí, trong thế kỷ 20, trên thế giới cũng chưa có nơi nào xảy ra nạn đói khủng khiếp như thế. Vì vậy, GS.Vũ Khiêu đề xuất nên lấy một ngày trước thời điểm kỷ niệm Cách mạng tháng Tám, thời điểm đau khổ nhất của nạn đói để tưởng nhớ đến đồng bào và nhắc nhở cho thế hệ mai sau cái giá của sự độc lập để họ biết và gìn giữ.
Trông nom Khu tưởng niệm cũng là bể mộ lớn nhất Việt Nam này, ông Tuyến đã đón biết bao đoàn khách từ khắp nơi đến viếng thăm. Đó là các đoàn lãnh đạo ở Trung ương hay địa phương, đoàn du lịch từ phương xa đến, Việt kiều từ nước ngoài về hay những cụ già đã bước sang tuổi “gần đất” xa trời, muốn đến để nhìn lại một thời kỳ lịch sử bi tráng của dân tộc. Nhưng với ông Tuyến, những vị khách đến từ đất nước Nhật Bản xa xôi lại cho ông nhiều ấn tượng sâu sắc nhất. Có khách đến đây vì từng nghe về tội ác do chính cha ông họ gây ra, có người đến vì tò mò, thậm chí có người còn trực tiếp tham chiến tại Việt Nam. Nhưng, dù họ là ai, đến với đây bằng tâm tính thế nào, mọi người cũng đều cúi đầu trước vong linh người đã khuất.
Ông Tuyến bảo, người Việt đến đây chủ yếu là những người đã có tuổi, họ thường đến thắp hương vào ngày mùng một hoặc rằm theo lịch âm. Còn các bạn trẻ cũng đến, nhưng ít hơn. “Tôi mong muốn làm sao thế hệ trẻ biết, hiểu rõ về những việc như thế này. Con người ta không thể quên đi nguồn cội, quên đi lịch sử được”, ông Tuyến nói.
Điều khiến ông Tuyến trăn trở nhất hiện nay là Khu tưởng niệm quá bé và chật chội. Ông mong muốn các cấp chính quyền quan tâm mở rộng Khu tưởng niệm, tạo điều kiện cho người dân đến thăm viếng được thuận lợi, không phải xếp hàng, chen chúc nhau để thắp hương, cúng viếng.
Theo Phùng Bình (Gia đình & Xã hội)
Chuyện buồn của gia đình bác Ba Phi
Sau nhiều năm lên kế hoạch xây dựng khu tưởng niệm bác Ba Phi, người nói dóc nổi tiếng miền Tây, cơ quan chức năng vẫn chưa thực hiện được do con cháu của ông chưa giải quyết xong tranh chấp đất.
Thửa đất cỏ mọc um tùm cạnh nhà bà Nguyễn Thị Anh là nơi bác Ba Phi cất nhà ở cùng con cháu đến cuối đời (hưởng thọ 80 tuổi). Căn nhà này có bàn thờ nghệ nhân dân gian nhưng di ảnh Ba Phi được chủ nhân gỡ xuống và thường xuyên khóa cửa ngoài. Ảnh: Duy Khang
Qua khỏi trung tâm xã Khánh Hải (Đầm Dơi, Cà Mau) gần 5 km, cuối con đường nhựa ở ấp Lung Tràm là nơi cố nghệ nhân dân gian Nguyễn Long Phi (bác Ba Phi) sinh sống đến cuối đời. Dân miền Tây không xa lạ với bác Ba Phi bởi ông là nhân vật trong văn học dân gian gắn liền với những mẩu chuyện cười mộc mạc.
Sinh năm 1884, đến tuổi "bẻ gãy sừng trâu", Phi cao lớn hơn người. Khi ấy gia đình cơ cực, ngày khẩn hoang tìm miếng cơm manh áo nhưng đêm đến ông tham gia đờn ca vui vẻ với hàng xóm. Ông được mọi người quý mến bởi tính tình vui vẻ, khảng khái và đặc biệt là luôn kể chuyện dí dỏm lôi cuốn người nghe.
Thấy Phi khỏe mạnh, thật thà nên Hương quản Tế giàu nhất vùng nhận vào làm công rồi gã ái nữ Trần Thị Lữ kém ông 6 tuổi. Tá điền gọi bà là Ba Lữ nên từ đó về sau mọi người gọi Phi bằng Ba Phi theo thứ của vợ. Thương rể siêng năng, cha vợ cắt đất cho Ba Phi đến 500 mẫu. Sau đó ông hiến lại cho chính quyền, chừa hơn 50 ha cho con cháu canh tác.
Bà Dung là cháu nội lớn nhất của bác Ba Phi. Ở tuổi 58, bà sống độc thân và cất nhà ở riêng vì tranh chấp đất với mẹ. Bà cho rằng nếu gia đình không mâu thuẫn nhau thì khu tưởng niệm bác Ba Phi đã được xây dựng. Ảnh: Duy Khang
Sống với vợ cả không có con, đêm đêm Ba Phi kéo đờn não ruột. Sợ ông buồn, bà Lữ bàn cách cưới vợ cho chồng. Lúc đầu Ba Phi không đồng ý nhưng vợ nhiều lần nài nỉ nên ông đồng ý ở với cô gái Khmer. Vài năm sau, Cà Cham sinh cho Ba Phi 3 người con gái rồi bệnh mất khi mới 24 tuổi. Chiến tranh loạn lạc, Ba Phi mất đi hai con gái, người còn lại đang sống ở huyện Trần Văn Thời.
Đối với con trai đích tôn Nguyễn Tứ Hải, mẹ ông này gặp Ba Phi rồi mang bầu trong những lần Hương quản Tế cho rể chở cá bán tận Mỹ Tho. Ông Hải có 5 người con, vợ là bà Nguyễn Thị Anh (81 tuổi) sống một mình vì mâu thuẫn với con gái lớn Nguyễn Thị Dung.
Theo bà Dung, trước khi mất cha bà đã chia đất đầy đủ cho 2 con gái, 3 con trai và mọi người đều có sổ đỏ. Khi Nhà nước đầu tư lộ nhựa vào Lung Tràm, lên phương án xây khu tưởng niệm bác Ba Phi thì mẹ bà xung đột với các con. Giận mẹ, bà Dung dựng nhà lá ở riêng.
Không qua lại với con gái lớn, bà Anh thường xuyên khóa cửa nhà đi đâu không ai rõ. Trong căn nhà vách tôn nền đất thờ Ba Phi với hai người vợ, di ảnh nghệ nhân có tài kể chuyện cường điệu gắn với đồng bưng miệt rừng U Minh đã bị gia chủ giấu mất. "Chính quyền vận động mẹ mang di ảnh ông nội đặt lên bàn thờ nhưng không được. Mẹ tranh chấp đất với các con, tòa đã có phán quyết nhưng mẹ tiếp tục khiếu kiện", bà Dung cho biết.
Đường vào khu mộ bác Ba Phi với 2 người vợ. Ảnh: Duy Khang
Trao đổi với VnExpress.net, Chủ tịch UBND xã Khánh Hải Trần Triều Tiên khẳng định nguyên nhân chậm tiến độ xây dựng khu tưởng niệm bác Ba Phi là do gia đình bà Anh chưa giải quyết xong tranh chấp đất. "Đường được trải nhựa đến nhà bác Ba Phi cho thấy Nhà nước rất quan tâm đến dự án mang ý nghĩa văn hóa của vùng. Đúng ra công trình xây dựng cùng lúc với khu tưởng niệm cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu ở Bạc Liêu nhưng vì gia đình bà Anh tranh chấp đất nên chưa biết bao giờ khởi công được", ông Tiên cho biết thêm.
Tại hội thảo quốc tế về truyện cười dân gian Ba Phi được Bộ Văn hóa Thông tin tổ chức 10 năm trước, các nhà nghiên cứu đều cho rằng truyện cười Ba Phi mang đậm phong vị của làng quê Nam Bộ. Tiếng cười sảng khoái vui tươi, gắn chặt với đồng ruộng, chim thú, cây rừng, có giá trị nghệ thuật cao.
Ví dụ chuyện rắn tát đìa bắt cá, chọi đá làm máy bay rơi, leo cây ớt té gãy chân, le le tập thể dục, tàu rùa chạy nhanh như tàu máy, rắn hổ mây tát nước khô cả đìa cá, lúa nở dưới nước, nếp dẻo đến mức treo được con chó trên xiên nhà, chim chóc bay rần rần che mát cả góc trời, cá rô ăn xoài nhiều nên nấu canh chua không cần dầm me hay chuột vừa chắp tay sau đít vừa hứng lúa...
Năm 2003, Ba Phi được Nhà nước truy tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tỉnh Cà Mau đã đầu tư dự án xây dựng khu tưởng niệm ông.
Theo VNE
Đại đao 500 năm tuổi của Mạc Đăng Dung - đâu là sự thật? Mỗi năm có hàng vạn người đổ về Khu tưởng niệm vương triều nhà Mạc ở huyện Kiến Thụy, TP Hải Phòng, chiêm bái thanh đại đao nặng hơn 30kg, được cho là vũ khí xông trận của Mạc tổ Mạc Đăng Dung. Tuy nhiên, không ít nhà nghiên cứu cổ vật, nghiên cứu lịch sử cho rằng chưa có cơ sở khoa...