Vì Trung Quốc quá tham vọng, Nhật Bản “để mắt” tới Biển Đông
Nhật Bản đang tích cực củng cố vai trò ở Biển Đông trong bối cảnh nguy cơ căng thẳng khu vực lên cao, sau khi Trung Quốc bao biện về hành động xây đảo.
Reuters đưa tin Nhật Bản thiết lập mối quan hệ hợp tác an ninh với Philippines, Việt Nam cũng như các nước ASEAN khác nhằm đối phó với tham vọng bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc.
Cảnh sát biển Việt Nam giám sát tàu Trung Quốc xung quanh giàn khoan HD- 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam năm 2014.
Nhật Bản không có tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông, tuy nhiên Tokyo bày tỏ lo ngại những động thái của Bắc Kinh trên Biển Đông thời gian qua, sẽ ảnh hưởng tới tuyến đường hàng hải quan trọng mà tàu chở hàng của Nhật thường xuyên qua đây.
Nguy cơ leo thang căng thẳng ở Biển Đông
Việc Nhật Bản “để mắt” tới Biển Đông được nước này lý giải là do lo ngại trước các động thái của Trung Quốc tại vùng biển có nhiều tàu chở hàng của Nhật Bản đi qua.
Đáng chú ý, ngày 8/3, trước sức ép và sự phản đối của cộng đồng quốc tế trước hoạt động xây đảo nhân tạo của Trung Quốc trên Biển Đông, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đã tìm cách ngụy biện rằng Bắc Kinh “có quyền xây đắp” trên những hòn đảo và bãi đá ngầm thuộc khu vực tranh chấp ở Biển Đông.
Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc còn nói rằng hoạt động xây đảo của nước này “không nhắm vào ai và không ảnh hưởng đến ai”.
Lập luận ông Vương Nghị đưa ra là những hòn đảo, bãi đá mà Trung Quốc đang thực hiện các dự án xây đảo quy mô lớn đều nằm trong “đường chín đoạn”, do đó đều thuộc “chủ quyền Trung Quốc”, và Bắc Kinh thích “xây gì thì xây” trong đó. Tuy nhiên, ông Vương Nghị đã cố tình phớt lờ một thực tế rằng cái gọi là “đường chín đoạn” mà Trung Quốc đưa ra không hề có cơ sở pháp lý theo luật pháp quốc tế và cũng không hề được cộng đồng quốc tế thừa nhận.
Hôm 26/2, phát biểu trước Ủy ban Các lưc lượng Vũ trang Thượng viện Mỹ về các mối đe dọa toàn cầu, giám đốc Cơ quan Tình báo Quốc gia Mỹ James Clapper tuyên bố “đường chín đoạn” mà Trung Quốc đơn phương vẽ ra trên Biển Đông để tuyên bố chủ quyền đối với hơn 80% diện tích vùng biển này mà không theo bất cứ điều luật quốc tế nào là hành động “quá đáng”.
Trung Quốc xây dựng trái phép trên đảo Gạc Ma (ảnh: bbcimg.co.uk)
Theo ông Clapper, các hoạt động đào đắp, xây đảo nhân tạo của Trung Quốc có thể làm gia tăng căng thẳng với các nước láng giềng. Ông Clapper nói: “Dù Trung Quốc đang tìm kiếm quan hệ ổn định với Mỹ, nhưng họ ngày càng sẵn sàng chấp nhận những căng thẳng song phương và khu vực vì lợi ích của mình, đặc biệt là trong các vấn đề chủ quyền trên biển”.
Biển Đông – một nội dung xoay trục châu Á của Nhật Bản
Biển Đông được cho là một nội dung trong chính sách xoay trục châu Á của Thủ tướng Shinzo Abe công bố tháng 5/2014 rằng “Tokyo nên giúp các nước Đông Nam Á duy trì tự do thông thương hàng hải và hàng không tại khu vực này”.
Chính sách này hoàn toàn phù hợp với chủ trương an ninh cứng rắn mà ông Abe khởi xướng. Thủ tướng Abe có tham vọng nới lỏng hạn chế trong bản hiến pháp hòa bình của Nhật Bản được ban hành từ sau chiến tranh thế giới II. Sự hợp tác này cũng tương đồng với quan điểm tái cân bằng của Mỹ ở châu Á.
Chuyên gia an ninh thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á của Singapore Ian Storey phân tích: “Xu hướng này đang trở nên rõ ràng và tôi nghĩ người Nhật sẽ trở lại đúng như cần phải thế, bất chấp lo ngại từ phía Trung Quốc”.
Trung Quốc hiện đang đẩy nhanh xây dựng đảo nhân tạo ở Trường Sa của Việt Nam. Theo giới chuyên gia, việc xây dựng này sẽ cho phép Trung Quốc mở rộng phạm vi tác chiến của hải quân và không quân, khả năng tiến tới thiết lập một vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) mà các máy bay khi bay qua sẽ phải báo cáo với Trung Quốc.
Năm 2013 khi Trung Quốc áp đặt vùng nhận dạng phòng không trên biển Hoa Đông, ngoài lên tiếng phản đối, cả quân đội Mỹ và Nhật đều ngay lập tức có động thái thách thức, như triển khai máy bay ném bom B-52 vào khu vực. Tuy nhiên giới chuyên gia cho rằng các nước Đông Nam Á nhỏ hơn có thể gặp khó khăn hơn nếu như một ADIZ được thiết lập ở Biển Đông.
Một nhà hoạch định chính sách cấp cao của Nhật Bản cho rằng một vùng nhận dạng phòng không kiểu như vậy sẽ là thảm họa vì nó có thể sẽ hạn chế nghiêm trọng hoạt động hàng không và hàng hải trong khu vực.
Hành động thế nào?
Reuters công bố chương trình hợp tác an ninh của Tokyo bao gồm nhiều nội dung trong đó có việc cung cấp các tàu tuần tra trên biển cho Philippines và tổ chức tập trận hải quân với nước này những tháng tới đây.
Nhật trình diễn sức mạnh hải quân với Tàu khu trục trực thăng Izumo (ảnh: Asahi)
Kế hoạch tập trận hải quân là một phần của Hiệp định an ninh mới được ký tại Tokyo hồi tháng 1/2015. Hiệp định này là cơ sở cho các cuộc đối thoại thường xuyên ở cấp thứ trưởng cũng như trao đổi sĩ quan cao cấp của cả hai bên. Hiện tại, 10 chiếc tàu tuần tra bảo vệ bờ biển đang được Nhật Bản thi công để bàn giao cho Philippines vào cuối năm nay.
Nhật Bản sẽ hỗ trợ tài chính nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng của một căn cứ quân sự của Philippimes ở đảo Palawan, một trong những đảo lớn gần nhất giữa vùng đất liền Philippines và Biển Đông.
Người phát ngôn lực lượng vũ trang Philippines, Đại tá Restituto Padilla đã hoan nghênh những động thái của Tokyo: “Hoàn toàn hợp lý khi Nhật Bản và Philippines cùng hợp tác nhằm giúp đỡ nhau bảo vệ các tuyến đường này”.
Ngoài ra, người đứng đầu Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản Gen Nakatani phát biểu hồi tháng trước rằng nước này cần xem xét lại chính sách không gửi máy bay tuần tra trên Biển Đông, khi xét đến tầm quan trọng của đường hàng hải khu vực này đối với Nhật. Phát biểu được xem là đáp lời một quan chức Hải quân Mỹ rằng Mỹ chào đón các chuyến bay tuần tra của Nhật Bản trên Biển Đông.
Ngoài chương trình hợp tác an ninh với Philippines, Nhật Bản còn có các chương trình hợp tác với Việt Nam Malaysia và Indonesia. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe không giấu diếm tham vọng tiến xa hơn nữa về phía Australia./.
Theo VOV
Tại sao Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông, Mỹ chỉ nói chứ không làm?
Ông Murray Hiebert - Phó GĐ Trung tâm nghiên cứu chiến lược quốc tế CSIS và là chuyên gia hàng đầu của Mỹ về Đông Nam Á lý giải tại sao Mỹ lên tiếng và hành động mạnh tại Ukraine nhưng lại chỉ trích yếu ớt Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông.
Video đang HOT
PV: Thưa ông Murray Hiebert, như ông đã nói, VN càng ngày càng trở nên quan trọng với Mỹ. Vậy ông nhận định gì về phản ứng của TQ khi thấy VN và Mỹ có những hoạt động trao đổi, hợp tác trong bối cảnh Mỹ - Trung đang có mối quan hệ ở tầm nước lớn với nhau?
TQ từng cắm Dàn khoan HD981 vào sâu lãnh hải VN hồi tháng 5.2014
- Ông Murray Hiebert: Thực tế chắc chắn cho thấy TQ đôi khi đã phát đi những tín hiệu trên Biển Đông để tỏ bày sự bất bình của mình khi thấy mối quan hệ Việt - Mỹ trở nên thân thiện hơn. Bản thân tôi không nắm rõ VN có đối sách gì trước thái độ bất bình của TQ nhưng tôi nghĩ VN cần bình tĩnh. TQ ngày càng lớn mạnh cả về kinh tế lẫn chính trị, chuyện này đặt VN vào thế khó! Cách đáp trả của VN và Philippines trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông cũng cần phải tính đến yếu tố hậu thuẫn về mặt ngoại giao.
Tôi cho rằng tạo áp lực về mặt ngoại giao với TQ là cần thiết, và viêc sử dụng biện pháp quân sự không phải là phương sách tốt khi đối phó với họ.
Các quan chức Hà Nội hỏi tôi là tại sao Mỹ phản ứng gay gắt với Nga và ra các đòn trừng phạt Nga trong cuộc khủng hoảng ở Ukraine nhưng khi TQ đưa dàn khoan vào vùng lãnh hải của VN thì Mỹ chỉ chỉ trích chút ít bằng lời nói chứ không ra tay hành động gì cả.
Lãnh đạp CSIS, ông Murray Hiebert cho rằng Việt Nam nên nắm thời cơ khi thị trường vũ khí Mỹ đã từng bước mở cửa đối với Việt Nam
Theo tôi, hai tình huống này hoàn toàn khác nhau xuất phát từ những mối quan hệ ràng buộc lắt léo của nền kinh tế Mỹ. Trong vấn đề Biển Đông, không thể dùng giải pháp cấm vận. Thay vào đó, những biện pháp ngoại giao gây áp lực đối với TQ là cần thiết khi mà nước này có những hành động để thể hiện sức mạnh mang tầm vóc toàn cầu của họ.
Vấn đề là phải bắt TQ hành động theo chuẩn mực của một nước lớn và họ phải cam kết có những hành động tương xứng với tầm vóc "anh cả" của mình chứ không ỷ mạnh hiếp yếu đối với những nước nhỏ trong khu vực.
Ông Murray Hiebert: Trung Quốc không nên ỷ mạnh hiếp yếu.
PV: Ông nhận xét gì về triển vọng của tiến trình đàm phán COC1?
Chuyên gia Murray Hiebert: -Tiến đến COC là một điều tốt đẹp. Tuy nhiên, tôi cũng không mấy lạc quan về chuyện TQ sẽ hăng hái đẩy nhanh tiến trình đám phán COC quá chậm chạp như hiện nay.
Trước đây cũng đã mất đến 10 năm mới ra được DOC2 . Việc triển khai các quy tắc của DOC đến nay cũng chẳng tiến triển gì.
Các nhà ngoại giao TQ luôn nói rằng việc triển khai DOC có nhiều bước tiến. Trong khi đó, những các nhà ngoại giao của khối Asean cho là mọi việc dẫm chân tại chỗ.
Tôi không hề lạc quan rằng COC sẽ trở thành hiện thực trong một thời gian ngắn ngủi.
Tôi nghĩ đến một số giải pháp mà VN có thể tiến hành để hóa giải những vấn đề ở Biển Đông như sau:
VN cần liên kết với các nước có tranh chấp lãnh hải với TQ trong khu vực như Philippines và Malaysia. Khi những nước này vượt qua những sự khác biệt để đạt được sự đồng thuật thông qua đàm phán, họ sẽ chứng tỏ được với TQ là đây là cách dùng để hóa giải vấn đề xung đột ở Biển Đông và cũng để cô lập TQ.
Theo ý kiến của tôi, VN và một số nước khác cần phải khảo sát hiện trạng quần đảo Trường Sa. Trung Quốc đang xây dựng nhiều hạng mục. Nếu chúng ta chần chừ chờ đợi thì 5 năm sau TQ đã hoàn toàn thay đổi hiện trạng quần đảo này.
PV: Như vậy, theo ông là các nước Asean cần hợp tác để hóa giái ý đồ chiến thuật cắt lát salami của TQ phải không ạ?
- Vâng, đúng thế. Chúng ta gồm có VN, Philippines, Malaysia, Brunei có thể hợp tác với Mỹ để thông qua các biện pháp ngoại giao tiến tới giải quyết xung đột giữa những nước trong khối Asean với nhau.
Quan trọng là phải phối hợp để khảo sát hiện trạng Biển Đông. Vì TQ có thể dùng chiến thuật cắt lát salami của họ để thay đổi mọi thứ.
PV: Trong bối cảnh Mỹ đã dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí đối với VN, ông nghĩ sao về triển vọng Mỹ đáp ứng yêu cầu từ Việt Nam?
- Tôi chỉ có thể nói là một khi lệnh cấm bán vũ khí cho VN được dỡ bỏ một phần, điều đó đồng nghĩa là chúng ta nhìn thấy một cửa hàng. Theo tôi được biết, thì cửa hàng đó vẫn chưa có khách đến mua.
Hiện tại, thì Mỹ có thể cung cấp cho VN các loại vũ khí rơi vào nhóm nâng cao năng lực giám sát lãnh hải như các loại radar, máy bay P3-Orion. Riêng đối với một số loại vũ khí có tính năng tác chiến cao thì lệnh cấm vẫn chưa được dỡ bỏ.
Ưu tiên số một của Mỹ là làm sao cung cấp cho VN những loại khí tài để nâng cao năng lực giám sát lãnh hải. Theo tôi,TQ có thể có những hành động mà VN không hề hay biết.
PV: Nhưng dòng máy bay chống tàu ngầm P3-Orion vốn được sản xuất từ những năm 60, dù sau này có nhiều cải tiến, có quá lỗi thời không thưa ông?
- Dòng máy bay này vẫn được Mỹ và một số nước sử dụng. Các bạn cũng có thể cần đến dòng P8 hiện đại hơn.
Việc trang bị những thiết bị giám sát rất cần thiết để bảo vệ lãnh hải VN nhưng theo tôi, phía VN dường như đang tỏ ra không vội vàng gì.
Trong khi đó, phía Mỹ chỉ dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí cho VN theo từng bước. Nên nhớ là tiến độ dỡ bỏ lệnh cấm lại phải căn cứ vào nhu cầu của VN mà thôi.
Vấn đề tùy thuộc vào VN phải xác định mình muốn cái gì. Nếu VN tiếp cận Mỹ và tuyên bố VN cần loại vũ khí X, phía Mỹ buộc phải xem xét lời đề nghị của VN.
Theo hiểu biết của tôi, VN chưa có một đề xuất cụ thể cho phía Mỹ. Trên thực tế, tôi nghĩ rằng động thái của VN là hơi chậm.
Theo tôi, VN cần tỏ ra quan tâm muốn mua một số loại vũ khí nào đó từ Mỹ. Nếu không thì chẳng có lí do gì để Mỹ dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí cho VN.
Theo tôi, vấn đề nằm ở chỗ, một phần lệnh cấm đã được dỡ bỏ có nghĩa là cửa hàng vũ khí đã khai trương, VN hãy đến mà mua sắm đi thôi!
Tôi muốn đề cập đến động thái của một số công ty vũ khí Mỹ muốn tiếp cận thị trường VN. Tuần trước, một nhà sản xuất vũ khí Mỹ đã làm việc với một vị tướng ở Bộ Quốc Phòng Việt Nam.
PV: Ý ông muốn nói đến công ty Lockheed, nhà sản xuất P3-Orion?
- Đúng, tuy nhiên, tôi không có thông tin gì về cuộc tiếp xúc giữa Lockheed và lãnh đạo của Bộ Quốc Phòng VN 3.
PV: Theo ông, nếu Mỹ có tân Tổng Thống vào năm 2016 là người không thuộc đảng Dân chủ như hiện nay, liệu chính sách của Mỹ đối với VN có nhất quán, hay sẽ có một sự thay đổi nào đó?
- So sánh giữa đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ, họ không có nhiều khác biệt về quan điểm đường lối chính sách của Mỹ đối với VN.
Nếu Tổng thống mới của Mỹ là bà Clinton, bà ấy sẽ tiếp tục những chính sách từ trước đến nay mà Mỹ áp dụng đối với VN. Nếu Tổng Thống mới là Jeb Bush, một chính khách đến từ bang Florida, tôi nghĩ việc đầu tiên ông ấy sẽ làm sau khi thức dậy vào mỗi buổi sáng là nhìn về biên giới phía Nam của nước Mỹ. Ý tôi muốn nói là ông Jeb Bush sẽ dành nhiều mối quan tâm đến khu vực Mỹ La tinh hơn là các khu vực khác trên thế giới. Nhưng bây giờ là quá sớm để dự đoán ai là Tổng thống tiếp theo.
Theo tôi, nếu đảng của Obama thắng thì chính sách xoay trục về châu Á sẽ được chú trọng, nhưng nhìn chung đảng nào lên nắm quyền thì quan điểm của Mỹ đối với VN vẫn không thay đổi.
PV: Hiện có nhiều nhà phân tích cho rằng Mỹ khá bối rối trong chính sách xoay trục về châu Á bởi có quá nhiều sự việc khác làm Mỹ phân tâm như cuộc khủng hoảng ở Ukraine, hay vấn đề phiến quân nhà nước hồi giáo IS, ông có cho rằng Tân Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ ông Ashton Carter sẽ tiếp tục theo đuổi chính sách của ông Chuck Hagel trong việc làm ấm mối quan hệ hợp tác quốc phòng Việt - Mỹ không, thưa ông?
Chuyên gia Murray Hiebert nhận xét ông Chuck Hagel đã gay gắt lên án hành động gây hấn của Trung Quốc trên Biển Đông tại diễn đàn đối thoại Shangri-la 2014
- Tôi nghĩ ông Carter 4 sẽ tiếp tục thực hiện chính sách với VN của ông Hagel5 Tuy nhiên, tôi cũng phải nói thẳng thắn rằng ông Carter không có sự gắn bó về mặt cá nhân với VN như ông Hagel. Ông Carter thậm chí chưa từng là quân nhân.
Trong khi đó, ông Hagel từng là cựu binh tham chiến ở VN, ông ấy từng bị thương ở đây. Tôi ước ông ấy có thể sang thăm VN trước khi từ chức Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, lẽ ra ông Hagel phải có một chuyến viếng thăm thú vị tới VN.
Tôi có người bạn từng tham gia chuẩn bị cho chuyến viếng thăm này nên tôi biết được những điều ông Hagel định làm tại VN.
Người ta không thể thực hiện những điều này nếu VN chưa từng hiện diện trong trái tim họ. Ông Carter là người có thể dùng trí tuệ để hiểu VN, nhưng việc hiểu VN bằng trái tim lại là một chuyện khác với việc nhìn nhận VN như theo kiểu "lại thêm một đất nước quan trọng khác"
Tôi có nghe thông tin ông Carter qua thăm VN vào cuối năm nay.
Chiến lược gia về Đông Nam Á hàng đầu của Mỹ ông Murray Hiebert cho rằng ông AshtonCarter sẽ tiếp tục thực hiện chính sách với VN của ông Chuck Hagel
PV: Cá nhân tôi từng nghe một câu chuyện hài chính trị, vâng, tôi nghĩ chỉ là chuyện hài, là Trung Quốc có tác động đến việc ông Hagel mất ghế Bộ trưởng. Ông có biết về mẩu chuyện hài hước này không?
- (Cười lớn) Bây giờ tôi mới nghe lần đầu. Đương nhiên chỉ là chuyện hài. Thực ra, ông Hagel là người rất năng động trong việc đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc phòng giữa Mỹ và VN. Nếu bạn còn nhớ, thì ông ấy đã dùng ngôn từ mang tính đả kích mạnh mẽ Trung Quốc tại đối thoại Shangri-la 2014.
PV: Còn một chính khách Mỹ gắn bó với VN khác là ông John McCain, Chủ tich Ủy ban Quân vụ Thượng viện Mỹ, ông ấy vẫn duy trì ảnh hưởng lớn của mình chứ thưa ông?
- Vâng, tôi nghĩ ông ấy có thể đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên ông ấy là người của đảng đối lập với đảng đang cầm quyền. Dù ông ấy là một người theo phe cộng hòa nhưng tôi nghĩ ông ấy vẫn có thể là người ủng hộ nhiệt tình cho sự xích lại gần nhau giữa Mỹ và VN.
Trên thực tế, John McCain5 là quân nhân cuối cùng từng tham chiến tại VN đang đảm đương chức vụ quan trọng trên chính trường Mỹ. Nay thì Chuck Hagel đã ra đi. Cựu Thượng nghị sĩ Richard Lugar6, từng là Chủ tịch của Ủy ban đối ngoại Thượng viện, và cả Jim Webb7 nữa, những người am hiểu VN cuối cùng đã rời bỏ chức vụ.
Chính trường Mỹ cần phải có một thế hệ những người am hiểu VN mới. Những người am hiểu VN hiện nay chỉ đếm trên đầu ngón tay, như trường hợp của John McCain và John Kerry8. Đây quả là một việc đáng phải lo ngại.
Theo nhà nghiên cứu Đông Nam Á Murray Hiebert Ngoại trưởng John Kerry là một trong những chính khách hiếm hoi có mối quan hệ gắn bó với VN đang tại vị
PV: Ông có nghĩ thực trạng này sẽ là một thách thức đối với chính sách xoay trục về châu Á của Mỹ khi mà những chuyên gia am hiểu về khu vực này không còn nắm quyền?
- Hoàn toàn đúng như thế! Những kiến trúc sư của chính sách xoay trục về châu Á đang ra đi.Chính điều này sẽ làm giảm mức độ lan tỏa áp lực để thực thi chính sách này. Tôi không nói là chính sách này sẽ không được kéo dài. Nhưng một khi John McCain hay Jim Webb ra đi thì tiếng nói ủng hộ cho chính sách này cũng giảm trọng lượng.
Chiến lược gia hàng đầu về Đông Nam Á Murray Hiebert bày tỏ sự tiếc nuối khi cựu TNS phe Cộng Hòa Richard Lugar vốn rất được lòng TT Obama đã rờiT hượng viện Mỹ . Ông Richard Lugar là TNS Mỹ từng có những đánh giá tích cực về triển vọng mở cửa nền kinh tế VN từ những năm đầu của thập niên 1990.
Cựu TNS Jim Webb từng là Thiếu úy Thủy Quân Lục Chiến Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Sau một thời gian rời Thượng Viện Mỹ, ông tuyên bố muốn được xem xét đủ điều kiện để trở thành ứng viên tranh cử Tổng Thống Mỹ của Đảng Dân chủ vào cuối năm 2014.Trong thông điệp tranh cử của mình, ông Jim Webb đề cập đến Việt Nam như một quốc gia quan trọng trong chiến dịch gầy dựng lại thanh thế của Mỹ trong khu vực Đông Nam Á. Ông nói giỏi tiếng Việt và có vợ làmột nữ luật sư gốc Việt- bà Hồng Lê Webb.
TNS John McCain được truyền thông Mỹ đánh giá là người có tư duy độc lập và có tầm nhìn xa trong việc nhận ra vị trí quan trọng của VN trong đối sách cân bằng ảnh hưởng với Trung Quốc ở khu vực châu Á. Ông Murray Hiebert nhận định John McCain, đương kiêm Chủ tịch Ủy ban Quân vụ Thượng viện Mỹ và cựu Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Chuck Hagel9có vai trò lớn trong việc thúc đẩy quan hệ Việt - Mỹ
Theo ông Hiebert, Bộ Quốc Phòng VN có thể mua máy bay P3-Orion của Lockheed để tăng cường năng lực giám sát và bảo vệ chủ quyền lãnh hải
PV: Thưa ông, vừa qua tin tức về vụ rớt máy bay trực thăng UH1 khiến dư luận VN đau lòng trước thực tế nhiều trang thiết bị quốc phòng của VN đang rất cũ. Ông có theo dõi chuyện này không?
Chuyên gia Murray Hiebert: Có chứ, nhưng tôi không muốn có những bình luận liên quan đến vụ việc này. Tôi muốn nhắc lại cho bạn nhớ là cách đây hai tháng, Mỹ đã bán những máy bay C130 đã qua sử dụng cho Philippines . Tôi nghĩ là VN cũng có thể mua những thiết bị này của Mỹ.
Ngoài ra, đối với P3-Orion, VN có thể dùng để giám sát từ trên không. Quân đội Mỹ vẫn dùng loại máy bay này để giám sát Biển Đông. Đây là loại máy bay có thể giám sát các hoạt động của những tàu ngầm.
MTG: Trước khi kết thúc cuộc trò chuyện của chúng ta, tôi vẫn bị ám ảnh bởi một câu hỏi, liệu những chiêc máy bay từ những năm 60 có an toàn không?
Chuyên gia Murray Hiebert: Có thể P-8 là sự thay thế tốt hơn. nhưng nhiều nước vẫn còn dùng P-3.
PV: Cám ơn ông vì cuộc trao đổi cởi mở này!
Chú thích của tác giả:
1. Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC)
2. Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC)
3. Tiến Sĩ Ashton Carter, một nhà vật lý lý thuyết từng giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng Mỹ. Ông được Tổng Thống Obama đề cử làm người đứng đầu Lầu Năm Góc thay thế cho cựu Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Chuck Hagel bị buộc phải từ nhiệm vào cuối tháng 11.2014. Ông Carter đã yêu cầu Thượng viện lùi thời hạn phê chuẩn việc ông làm Tân Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Mỹ đến tháng 2.2015 vì ông bị chấn thương cột sống. Ngày 22.2, ông được Thượng viện Mỹ bỏ phiếu vào vị trí Bộ Trưởng Quốc phòng Mỹ.
.5. Thượng Nghị Sĩ John McCain: Đương kiêm Chủ tịch Ủy ban Quân Vụ Thượng viện Mỹ, từng là cựu tù nhân chiến tranh tại VN. Cùng với TNS John Kerry, ông John McCain vận động chính phủ Mỹ bình thường hóa quan hệ ngoại giao với VN. Ông cũng là một trong những chính khách Mỹ đầu tiên xem Việt Nam là một đối trọng đáng giá trong khu vực mà Mỹ có thể hợp tác để cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực.
John McCain cùng với các ông Jim Webb, Chuck Hagel thuộc lứa quân nhân đầu tiên của Mỹ tham chiến ở VN.
6.Cựu Thượng Nghị Sĩ Richard Lugar, từng làm việc trong Ủy ban đối ngoại Thượng viện Mỹ, là một trong những nhà lập pháp đầu tiên của Mỹ tới VN sau năm 1975.
7. Cựu Thượng Nghị Sĩ Jim Webb, tác giả của nhiều cuốn sách đề tài chiến tranh bán chạy. Một trong những cuốn tiểu thuyết đáng chú ý của ông là Fields of Fire (Những cánh đồng lửa). Ông Jim Webb có vợ là người Việt Nam
8.Thượng Nghĩ Sĩ John Kerry, đương kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao Mỹ là người có công hàn gắn quan hệ Việt - Mỹ. Ông là một trong những người tiên phong ủng hộ việc Mỹ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam . Năm 1994, Thượng viện thông qua đề nghị của Kerry và John McCain yêu cầu gỡ bỏ cấm vận Việt Nam.
9. Tại Hội Nghị Shangri-la lần thứ 13, Bộ trưởng Chuck Hagel đăng đàn với những chỉ trích gay gắt Trung Quốc hành động đơn phương, gây bất ổn để khẳng định chủ quyền ở Biển Đông. Ông nhấn mạnh cam kết của Washington là việc tái cân bằng ở châu Á-Thái Bình Dương là một thực tế chứ không chỉ là ý định
Tiểu sử ông Murray Hiebert:
Ông Murray Hiebert là nhà nghiên cứu cao cấp, là Phó giám đốc chương trình Nghiên Cứu Đông Nam Á tại Trung Tâm Chiến Lược và Quốc Tế ở Washington D.C. (CSIS)
Trước khi gia nhập CSIS, ông Murray Hiebert là Phó Giám đốc cấp cao khu vực Đông Nam Á của Phòng Thương Mại Mỹ, nơi ông có nhiệm vụ xúc tiến thương mại và đầu tư giữa Mỹ và Châu Á.
Ông làm việc cho Phòng Thương Mại Mỹ vào năm 2006, sau khi thôi việc ở tòa soạn tờ Wall Street Journal.
Lúc còn làm phóng viên cho tờ Wall Street Journal (Nhật báo Phố Wall), ông là cây bút chuyên đưa tin tức liên quan thương mại, sở hữu trí tuệ và quá trình Trung Quốc gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO.
Trước khi được cử đi công tác tại Bắc Kinh, ông Murray Hiebert từng làm việc cho tờ Wall Street Journal , ấn bản Châu Á, và tờ Far Eastern Economic Review (Tạp chí Kinh Tế Viễn Đông) ở Washington, chuyên trách mảng quan hệ đối ngoại của Mỹ với các nước châu Á.
Từ năm 1995 đến 1999, ông Hiebert làm việc cho tờ tạp chí này ở Kuala Lumpur
Ông có nhiều bài viết xung quanh khủng hoảng tài chính châu Á và tường thuật về sự phát triển ở Singapore.
Trong những năm đầu của thập niên 1990, ông được ban biên tập tạp chí biệt phái đến Hà Nội để tường thuật về quá trình cải cách kinh tế của VN.
Ông gia nhập văn phòng của Tạp chí Kinh tế Viễn Đông vào năm 1986, chuyên trách mảng thông tin về phát triển kinh tế-chính trị ở VN, Cam-pu-chia và Lào.
Theo Một Thế Giới
Hành trình xây cột mốc chủ quyền trong lòng người Việt Nam Việt Nam là quốc gia biển, công dân Việt Nam là những công dân biển, cột mốc xây dựng ở ngoài khơi, ở tọa độ với các kinh độ, vĩ độ. Nhưng cột mốc chủ quyền biển đảo cũng phải xây dựng trong lòng người dân Việt Nam. Khi mới ra mắt, triển lãm "Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những...