Vì sao nợ xấu đang lớn dần?
Việc nhiều ngân hàng giữ nguyên nhóm nợ đối với các khoản vay bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 theo Thông tư 01 khiến tỷ lệ nợ xấu hiện nay chưa được phản ánh đúng.
Báo cáo tài chính quý II/2020 của các ngân hàng cho thấy, mặc dù lợi nhuận tăng nhưng tỷ lệ nợ xấu đang lớn dần do đại dịch COVID-19 và trở thành áp lực cho ngành ngân hàng trong những tháng còn lại của năm 2020.
Nợ xấu tiềm ẩn dần xuất hiện trên bảng cân đối kế toán. Ảnh: Trần Việt/TTXVN.
* Nợ xấu tiềm ẩn dần xuất hiện
Theo báo cáo đánh giá triển vọng về ngành ngân hàng những tháng cuối năm 2020 vừa được Trung tâm phân tích và tư vấn đầu tư thuộc Công ty Chứng khoán SSI (SSI Research) công bố thì nợ xấu tiềm ẩn dần xuất hiện trên bảng cân đối kế toán.
Dựa trên kịch bản đại dịch COVID-19 được kiểm soát vào giữa năm 2021, SSI Research cho rằng thời gian tái cơ cấu nợ có thể kéo dài đên tháng 6/2021. Do đó, nợ xấu tiềm ẩn sẽ thây rõ trong những tháng cuối năm 2021 và chi phí dự phòng cho các khoản nợ xấu này cũng sẽ tăng dần cho cả năm 2021 và 2022.
Theo ước tính của SSI Research, nợ xấu tại thời điểm cuối năm 2020 sẽ tăng 17% và 14% vào năm 2021 (so với -16,3% vào năm 2019). Theo đó, chi phí tín dụng sẽ lần lượt là 1,67% và 1,64% (so với 1,5% trong giai đoạn 2017 – 2019 và 1,3% trong giai đoạn 2013 – 2016).
Trong khi đó, báo cáo tài chính bán niên được các ngân hàng công bố cho thây, tổng số dư nợ xấu đến ngày 30/6/2020 đã tăng hơn 102.000 tỷ đồng, tức là tăng khoảng 20,6% so với cuối năm 2019.
Nếu xét về số dư nợ xấu, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) hiên đứng đầu với 22.767 tỷ đồng, tăng 16,8% so với cuối năm 2019. Tiếp đó là Ngân hàng Công Thương Việt Nam (VietinBank) với 15.968 tỷ đồng, tăng 47,7%, đặc biệt nợ nhóm 3 và 4 (nợ dưới tiêu chuẩn và nợ nghi ngờ mất vốn) của ngân hàng này tăng đột biến 250% và 85% so với cuối năm 2019.
Theo phân tích của Công ty Chứng khoán Agribank (Agriseco), cuối quý II/2020, tỷ lệ nợ xấu trung bình của các ngân hàng niêm yết khoảng 1,7%, tăng 10 điểm cơ bản so với cuối quý I/2020 và 30 điểm cơ bản so với đầu năm. Mức tăng nợ xấu này không cao và nhiều khả năng là do các ngân hàng vận dụng triệt để việc giữ nguyên nhóm nợ đối với các khoản vay được tái cơ cấu theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ cho khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch COVID-19 (Thông tư 01).
Video đang HOT
Một số ngân hàng có tỷ trọng các khoản cho vay được cơ cấu theo Thông tư 01 cao như: Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam ( Techcombank) là 3,6%, Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng ( VPBank) 10,4%, Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) 3,2%, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) 1,6%.
Cũng theo các chuyên gia đến từ Agriseco, việc nhiều ngân hàng giữ nguyên nhóm nợ đối với các khoản vay bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 theo Thông tư 01 khiến tỷ lệ nợ xấu hiện nay chưa được phản ánh đúng.
Theo ước tính của Ngân hàng Nhà nước, có khoảng 2 triệu tỷ đồng dư nợ bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, tương đương khoảng 23% dư nợ toàn hệ thống, lớn gấp xấp xỉ 20 lần lợi nhuận trước thuế toàn ngành ngân hàng năm 2019.
* Gia tăng trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Trong bối cảnh dịch COVID-19 tác động tiêu cực lên chất lượng dư nợ, các ngân hàng trong hệ thống đã tích cực tăng trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trong nửa đầu năm 2020.
Nhóm nghiên cứu đến từ Công ty chứng khoán đầu tư Việt Nam (IVS) nhận định, các ngân hàng sẽ tiếp tục duy trì quan điểm thận trọng bằng việc gia tăng trích lập dự phòng trong các quý tiếp theo. Đồng thời, động thái sử dụng dự phòng để xử lý nợ xấu cũng góp phần đảm bảo tỷ lệ nợ xấu không vượt ngưỡng mục tiêu sau khi các khoản dư nợ tái cơ cấu được chính thức phản ánh trong báo cáo tài chính.
Theo IVS, hiện tại chỉ có Vietcombank tăng chi phí dự phòng so với cùng kỳ năm 2019. Đáng chú ý, trong nửa đầu năm 2020, ngân hàng này chưa sử dụng khoản trích lập nào để xử lý nợ xấu. Do vậy, tỷ lệ nợ xấu cũng duy trì xu hướng tăng nhẹ từ đầu năm.
Trong khi đó, dù không tăng chi phí dự phòng so với cùng kỳ năm 2019, những năm gân đây BIDV và Vietinbank đang mạnh tay tái cấu trúc và xử lý dần nợ xấu trong bảng cân đối. Trong nửa đầu năm 2020, BIDV đã xử lý gần 4.500 tỷ đồng nợ xấu; Vietinbank (bắt đầu giai đoạn tái cấu trúc từ cuối năm 2018) cũng xử lý 3.787 tỷ đồng nợ xấu trong 6 tháng đầu năm nay (thấp hơn con số 4.047 tỷ đồng cùng kỳ năm 2019).
Cùng với đó, Techcombank, SHB và ACB ghi nhận mức tăng chi phí dự phòng đột biến nửa đầu năm (tăng 3 đến 4 lần cùng kỳ năm 2019).
Liên quan đến xử lý nợ xấu, VPBank và Techcombank là 2 ngân hàng có động thái đáng chú ý nhất. Trong kỳ, VPBank đã sử dụng 6.284 tỷ đồng dự phòng cụ thể để xử lý nợ xấu, giúp tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng giảm từ 3,42% cuối năm 2019 còn 3,19% tại thời điểm cuối quý 2. Còn Techcombank xử lý 1.746 tỷ đồng nợ xấu bằng dự phòng cụ thể, gấp gần 20 lần so với cùng kỳ năm 2019.
Theo Ngân hàng Nhà nước, dịch bệnh COVID-19 đã gia tăng nợ xấu toàn ngành. Số liệu của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tỷ lệ nợ xấu nội bảng đến cuối tháng 6/2020 ước tính là 1,8%.
Tính từ năm 2012 đến cuối tháng 6/2020, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng ước tính đã xử lý được 1.106,95 nghìn tỷ đồng nợ xấu. Riêng năm 2019 xử lý được 159,7 nghìn tỷ đồng và 6 tháng đầu năm 2020 xử lý được 56,96 nghìn tỷ đồng nợ xấu.
Theo ước tính của Ngân hàng Nhà nước, dựa trên các kịch bản tăng trưởng GDP năm 2020 khoảng 4%, tỷ lệ nợ xấu nội bảng ước tính đến cuối năm 2020 ở mức 2,41% (tăng 0,78 điểm phần trăm so với cuối năm 2019). Trong trường hợp GDP tăng khoảng 5%, tỷ lệ nợ xấu nội bảng ước tính đến cuối năm 2020 sẽ ở mức 2,16% (tăng 0,5 điểm phần trăn so với cuối năm 2019)./.
Cứu tín dụng BOT giao thông làm tiền đề triển khai 5 dự án cao tốc Bắc - Nam
Năm dự án PPP cao tốc Bắc - Nam là cơ hội kinh doanh tốt cho nhà đầu tư lẫn tổ chức tín dụng, song cần giải quyết dứt điểm những tồn tại của các dự án BOT trước đây.
Dư luận có thể chia sẻ phần nào và cảm thông trước việc các ngân hàng thương mại trong nước yêu cầu cơ quan chức năng xử lý dứt điểm những tồn tại, vướng mắc đang khiến nhiều dự án BOT (xây dựng - kinh doanh - chuyển giao) giao thông đứng trước nguy cơ vỡ phương án tài chính, đồng thời coi đó là một tiền đề để xem xét tham gia tài trợ vốn tín dụng cho 5 dự án PPP cao tốc Bắc - Nam phía Đông đang trong giai đoạn lựa chọn nhà đầu tư.
Nhiều dự án BOT giao thông đối diện với tình trạng sụt giảm doanh thu.
Cần phải nói thêm, với nhiều ưu đãi và cơ chế chia sẻ rủi ro đã được cập nhật, 5 dự án PPP cao tốc Bắc - Nam thực sự là cơ hội kinh doanh tốt cho nhà đầu tư lẫn tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, những khoản nợ xấu tại một số dự án BOT triển khai trong giai đoạn trước có xu hướng gia tăng đã khiến ngân hàng phải ngập ngừng. Ngân hàng có lẽ càng dè dặt khi gần một nửa số dự án BOT giao thông bị hụt doanh thu, trong đó không ít dự án đứng trước nguy cơ thua lỗ lớn, thậm chí thu không đủ trả chi phí lương và duy tu công trình.
Đáng chú ý là, dù dư nợ chưa bằng một nửa so với dự án BOT ngành điện (111.000/260.000 tỷ đồng), nhưng từ đầu năm 2018 đến nay, tỷ lệ nợ xấu/dư nợ tín dụng đối với các dự án BOT, BT (xây dựng - chuyển giao) lĩnh vực giao thông liên tục tăng nhanh. Tại thời điểm 30/6/2019, tỷ lệ nợ xấu BOT giao thông là 2,11%, một năm sau (30/6/2020) đã tăng lên 5%, chủ yếu do doanh thu thu phí không đạt như dự kiến do tác động trực tiếp của Covid - 19.
Có khá nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng sụt giảm doanh thu tại các dự án BOT giao thông. Trong đó, có nguyên nhân do phân lưu lưu lượng phương tiện sang tuyến đường song hành, do trạm thu phí chưa được đưa vào khai thác hoặc thời gian đưa vào thu phí chậm so với hợp đồng, do phải giảm giá vé dịch vụ sử dụng đường bộ và miễn giảm phí cho khu vực lân cận trạm thu phí...
Thời gian qua, với trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Bộ Giao thông - Vận tải đã nỗ lực phối hợp với các nhà đầu tư xử lý hoặc đề xuất giải pháp nhằm tháo gỡ. Nhưng do phần lớn vướng mắc này vẫn phải chờ quyết định của cấp có thẩm quyền, nên tình trạng thua lỗ tại các dự án BOT ngày càng nghiêm trọng.
Trên thực tế, với việc cho vay 75 - 85% tổng mức đầu tư và nhận thế chấp bằng quyền thu phí dự án BOT, các tổ chức tín dụng mới là những người chịu rủi ro lớn nhất khi doanh thu thu phí tiếp tục thấp xa so với dự kiến và rất khó cải thiện trong ngắn hạn.
Không thổi phồng quá mức rủi ro, nhưng rõ ràng, việc các dự án BOT bị hụt thu có dấu hiệu lan rộng thực sự là vấn đề cần được các cơ quan quản lý nhà nước xem xét, nhận diện và giải quyết thấu đáo. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ phải tổng rà soát, đánh giá rủi ro, đồng thời tăng cường thanh tra, kiểm tra và giám sát chặt chẽ, liên tục việc cấp tín dụng đối với các dự án BOT, BT giao thông, nhất là đối với các ngân hàng thương mại có dư nợ lớn, với nhóm khách hàng và người có liên quan có số dư tín dụng lớn. Mục đích là để kịp thời phát hiện, cảnh báo rủi ro và có biện pháp xử lý nhanh, thích hợp, đúng quy định pháp luật, không để nợ xấu đối với tín dụng các dự án BOT, BT giao thông gia tăng.
Đối với các dự án mà doanh thu thu phí không đạt như dự kiến do ảnh hưởng của chính sách thu phí, không được tăng phí như kế hoạch... các bộ, ngành liên quan cần khẩn trương xử lý dứt điểm để tạo niềm tin cho nhà đầu tư và các tổ chức tín dụng tham gia tài trợ, tuyệt đối không đổ dồn khó khăn, trách nhiệm cho nhà đầu tư và ngân hàng. Bên cạnh đó, các địa phương cần có trách nhiệm trong việc phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc đặt trạm, quản lý trạm thu phí để tránh tình trạng bỏ trạm, di dời trạm, ảnh hưởng đến nguồn trả nợ ngân hàng.
Về phần mình, bản thân các tổ chức tín dụng cũng phải nâng cao ý thức trách nhiệm đối với việc tài trợ vốn cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặc biệt là các dự án hạ tầng giao thông; thường xuyên nắm bắt thông tin về dự án, khách hàng vay vốn, chủ động phối hợp với khách hàng để giải quyết khó khăn, vướng mắc...
Cùng với việc nâng cao chất lượng lựa chọn nhà đầu tư, về lâu dài, việc đa dạng hóa thêm các nguồn vốn cho các dự án PPP hạ tầng là rất cấp thiết, tránh phụ thuộc quá nặng nề vào nguồn tín dụng trong nước vốn đã chạm giới hạn cấp tín dụng từ lâu. Những khó khăn trong việc huy động vốn vay cho 5 dự án PPP cao tốc Bắc - Nam có thể xem là ví dụ điển hình.
Một lãnh đạo cao cấp Dabaco (DBC) đăng ký bán ra 800.000 cổ phiếu Ông Lê Quốc Đoàn, Thành viên HĐQT của CTCP Tập đoàn Dabaco Việt Nam (Dabaco, mã chứng khoán: DBC - sàn HOSE) đăng ký bán ra 800.000 cổ phiếu. Trước giao dịch, ông Đoàn sở hữu 1.203.480 cổ phiếu DBC, nếu giao dịch thành công ông chỉ còn sở hữu 403.480 cổ phiếu, tương đương giảm tỷ lệ sở hữu từ 1,15% vốn...