Vị ngọt bùi khó quên của món “tôm bay” dân dã
Món ăn được chế biến từ côn trùng từ lâu đã không còn xa lạ với đồng bào miền núi.
Khi được chế biến thành các món ăn đậm chất quê, côn trùng khá kén người ăn nhưng lại hấp dẫn với những người dân quê và cả những thực khách ưa tìm hiểu những hương vị mới lạ.
Tùy theo từng mùa mà có các loại côn trùng để chế biến thành những món khác nhau. Nhưng vào thời điểm đang mùa gặt, không khó để mấy tốp trẻ con đuổi bắt được hàng cân cào cào, châu chấu hay muồm muỗm trên khắp cánh đồng. Người dân quê vẫn hay gọi chúng là “ tôm bay” cho gần gũi với những món ăn phổ biến của các gia đình.
Mỗi khi mùa lúa chín rộ, ấy là lúc bắt đầu mùa muồm muỗm. Thoạt trông, muồm muỗm có vẻ giống con cào cào, nhưng nhìn kỹ thấy mình nó thon, cánh nhỏ gọn hơn nhiều. Người ta bảo muồm muỗm thường ăn các loại trứng sâu, muỗi… trong các ruộng lúa nên được xếp là một loại “thiên địch”, là bạn của người nông dân.
Muồm muỗm có hình dáng giống cào cào.
Để bắt được nhiều muồm muỗm cũng không phải đơn giản. Chỉ trừ những chú muỗm muỗm hạ cánh ở tầm thấp, hoặc ngay dưới đường, còn lại, những con đậu trên cao (cành cây, mái nhà, cột điện…), người ta phải dùng đến những dụng cụ tự chế đặc biệt.
Đó là một chiếc sào dài, đầu trên được buộc hoặc gắn thêm một cái chai nhựa (hoặc can nhựa loại nhỏ) đã được cắt bỏ phần đáy để làm thành một cái phễu tầm xa; ngoài ra còn phải có đèn pin để soi những con muồm muỗm khôn ngoan nấp mình sau những cây xà ngang…
Khi “tóm” muồm muỗm ra khỏi phễu cũng phải biết cách, nếu không muốn bị hai chiếc răng vừa to vừa cứng, vừa nhọn hoắt lại đen xì của chúng cắn vào tay. Theo kinh nghiệm của người nông dân từ bao lâu nay, bắt muồm muỗm phải cầm thật chắc vào phần gáy để tránh chúng có thể… quay ngược đầu về phía sau.
Bắt muồm muỗm, người dân thường đi thành từng tốp, từng nhóm vài người một. Mỗi người đều “thủ” sẵn một cái chai nhựa trong tay, người cầm gậy dài, người cầm đèn pin. Vào những ngày muồm muỗm xuất hiện nhiều, có nhà giăng đèn bẫy cả đêm có thể thu được từ 5-10 kg trở lên.
Vào ngày mùa, người dân có thể làm giàu nhờ muồm muỗm, châu chấu,…
Video đang HOT
Khâu sơ chế muồm muỗm cũng không đơn giản. “Vặt cánh, bẻ chân, ngắt đầu, rút ruột” là 4 khâu cơ bản để tạo nên hình hài một chú muồm muỗm trên bàn nhậu. Trải qua 4 khâu, muồm muỗm được rửa sạch, để ráo nước rồi cho vào chảo.
Có rất nhiều cách để chế biến món ăn ngon từ muồm muỗm. Song muồm muỗm rang giòn vẫn là đặc sản được người dân nơi đây ưa chuộng nhất. Muồm muỗm rang chín có màu vàng sậm, rất thơm.
Đầu tiên, muồm muỗm được om với nước măng chua trên bếp lửa liu riu. Cạn nước, cho ngay mỡ (hoặc dầu ăn) vào, đảo đều tay trên bếp to lửa. Khi nào nghe tiếng nổ lách tách tức là muồm muỗm đã chín giòn.
Nêm nếm gia vị vừa đủ cùng với mì chính, một chút ớt tươi và đảo nhanh tay; cuối cùng, cho lá chanh thái chỉ nhỏ vào, đảo đều chín tới lá chanh là bắc chảo ra được.
Các món ăn từ muồm muỗm rất hấp dẫn thực khách.
Người ta còn hay nướng muồm muỗm để ăn. Lấy một cái que xiên qua mình con muồm muỗm rồi đem nướng trên bếp lửa. Mới chỉ nghe tiếng mỡ của nó chảy xèo xèo xuống than hồng thôi đã thấy sự thèm.
Chừng vài phút sau, khi cánh và chân muồm muỗm cháy hết chỉ còn trơ lại mỗi cái thân tròn, căng, vàng óng, thơm phức. Cái mùi thơm cuốn hút đặc biệt này làm náo nức cả lũ trẻ, cả người lớn và cả những người chưa từng ăn muồm muỗm nướng bao giờ.
Thưởng thức muồm muỗm, du khách sẽ “chết mê” với vị ngọt, bùi bùi, béo ngậy mà không thấy ngấy ấy.
Muồm muỗm nướng, châu chấu rang từ lâu đã là món ăn phổ biến nhất trong mâm cơm ngày mùa, là món khoái khẩu của cả người lớn lẫn trẻ nhỏ vùng quê. Hương vị đậm đà của những món ăn này gắn với ngày mùa, đồng ruộng, khiến ai khi nghĩ về cũng nhớ quê đến nao lòng.
Theo Dân trí
Dân dã, đậm đà khoai xéo xứ Nghệ
Có những món ăn của một thời đói kém mà khi nhớ về, người ta muốn quên đi.
Nhưng cũng có những món ăn khiến ta nhớ mãi bởi nó là kỉ niệm lưu giữ chút hương vị tuổi thơ. Khoai xéo của vùng đất Nghệ An đầy nắng gió là một trong những thức quà như vậy. Giản dị, đơn sơ nhưng chất chứa bao hoài niệm.
Nghệ An là miền đất nằm ở miền Trung nắng gió, nơi khí hậu ngặt nghèo chẳng mấy khi chiều lòng người. Cứ vào khoảng tháng 3, tháng 8 hàng năm, người dân thường phải đối mặt với cảnh hết thóc gạo, "đói nheo đói nhóc". Lúc này, nguồn sống của người xứ Nghệ chỉ còn củ khoai lót dạ cho qua bữa đói bữa no.
Nhưng để dễ ăn hơn và như một cách "đổi món", người ta thêm vào nồi khoai đậu, lạc, nếp cho đỡ chán, tạo thành món khoai xéo. Ấy thế mà giờ đây, món ăn ngày đói này đã trở thành một món đặc sản độc đáo, khiến những người con bao năm xa quê muốn tìm về để lưu giữ chút hương vị của tuổi thơ.
Nguyên liệu làm khoai xéo bao gồm: khoai lang khô, nếp, lạc nhân, đậu, đường hoặc mật mía...
Chỉ nói riêng củ khoai thôi, ở xứ Nghệ mỗi vùng cũng đã sản xuất ra một giống khoai khác nhau. Nếu củ khoai từ Vinh đổ ra, hình dáng sẽ nhỏ, thon dài, ruột vàng, vị ngọt, phù hợp nấu chè, súp. Củ khoai Can Lộc lại có ruột trắng trong, dùng để nấu khoai gieo. Riêng hai huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên là đất cát pha nên trồng lúa cho năng suất không cao, nhưng trồng khoai, trồng lạc thì luôn nhiều củ và đẫy đà.
Khoai lang đến độ thu hoạch phải dỡ nhanh trong vài ngày, nếu không sẽ dễ bị hà. Rổ khoai mang về được chọn những củ to, có nhiều bột nhất. Người dân lựa ngày nắng to, có gió nồm mới đem khoai ra phơi cho khô trắng. Kế đó, khoai được cạo vỏ lụa, rửa sạch, thái lát mỏng, phơi cho tới khi khô giòn thì gom lại, bảo quản trong chum, phủ rơm khô để chống ẩm hay cắt tàu lá chuối phơi khô lót miệng chum, sau bọc nilon, đậy nắp là có thể để dành rất lâu mà không lo mốc, mọt.
Những lát khoai được thái mỏng, phơi cho đến khi khô cong, giòn rụm.
Khoai phơi khô có thể chế biến được thành nhiều món như nấu chè, làm bánh, nhưng lạ nhất vẫn là món khoai xéo. Một nồi khoai xéo độn thêm đậu xanh, đậu đen, lạc, nếp, đường chẳng hiểu sao ăn mãi không thấy chán.
Cách chế biến khoai cũng không quá khó. Hạt đậu đen hoặc đỏ, lạc nhân, nếp được đun mềm trước khi đổ mớ khoai khô vào đun sôi. Nồi khoai đun cho tới khi cạn nước. Lúc này, miếng khoai, hạt đậu, hạt lạc đã mềm nhũn và những hạt nếp chín dẻo, người xứ Nghệ cho thêm một chén mật mía (hoặc đường) cho có độ ngọt.
Công đoạn cuối cùng quan trọng nhất chính là xéo khoai. Để xéo được khoai, phải dùng hai chiếc đũa bếp bản to, đặt chéo nhau rồi liên tục dùng tay ép miếng khoai cho nát. Hoặc nếu không cũng có thể dùng chiếc chày, giã mạnh ngay trong nồi khi khoai còn nóng.
Khoai xéo có thể được nén chặt lại, ăn đến đâu dùng dao xắn ra đến đấy.
Sau khi xéo khoai xong, lấy đũa dỡ thành từng miếng đặt vào lá chuối rồi gói chặt hoặc dùng thìa nén chặt khoai vào bát tô, khi ăn dùng dao xắn thành từng lát mỏng. Ăn khoai xéo thấy rõ vị ngọt của khoai, dẻo thơm của gạo nếp và vị bùi của đậu lạc lại như thấm cả vị mặn mà của miền đất cát pha.
Cứ như thế, khoai xéo trở thành món ăn bình dị mà đi vào lòng người với bao kỷ niệm tuổi thơ ngọt ngào. Ngày nay, khi đất trồng khoai đã chẳng còn nhiều, Nghệ An cũng không có cơ hội thưởng thức khoai xéo thường xuyên. Những người con nhớ quê hương chỉ còn chút hoài niệm về những ngày xưa tháng cũ, nhớ về mùi khoai thơm bốc lên qua từng mái nhà.
Một món ăn dân gian bình dị của xứ Nghệ, khiến cho những người con xa quê nhớ đến để tìm lại tuổi thơ, ghi giữ lại chút hồn quê.
Khoai xéo từ lâu đã lắng đọng trong tình cảm người xứ Nghệ. Chẳng thế mà trong dân gian có bài vè của người đàn ông xót thương khi vợ mất:
Bấy lâu ăn ở
Phải đạo vợ chồng
Nước rót cơm bưng
Dừ mụ bỏ lẻ tôi nửa chừng
Để tôi hon héo
Nấu nồi khoai xéo
Đưa mụ ra đồng
Đánh ba tiếng tùng tùng
Mụ ơi là mụ!
Theo Dân trí
Những đặc sản "đánh đố" thực khách chỉ có ở Tây Bắc Đứng trước một món ăn hấp dẫn cả về màu sắc, hương thơm lẫn mùi vị, chắc chắn sẽ chẳng ai muốn chối từ. Thế nhưng, ở Tây Bắc lại có những đặc sản mang đến cho thực khách cảm giác rờn rợn, chần chừ chẳng dám ăn ngay từ lần đầu tiên tiếp xúc. Muồm muỗm Cứ vào thời điểm lúa ngoài...