Về An Giang xem dân bẫy chuột đồng, nếm món “trinh nữ kén chồng”
Đầu mùa mưa, cỏ non và lúa thóc đầy đồng tha hồ gặm nhấm, con nào cũng mướt mượt, mập ú, làm món gì ăn cũng khoái khẩu. ở miền Tây, săn chuột đồng làm thực phẩm diễn ra quanh năm. Nhưng “mùa hốt tiền” lại thường rơi vào khoảng cận hoặc sau Tết Nguyên đán, đó là thời điểm nông dân đốt đồng vào vụ mới.
Hết cái ăn, dòng họ chuột dắt díu nhau kể cả vượt biên từ phía Campuchia xâm nhập vào những cánh đồng dọc biên giới Đồng bằng sông Cửu Long để phá hoại. Những tay săn chuột đồng thượng hạng đánh hơi được liền nhảy xuống ghe dong thẳng đến cửa khẩu giăng bẫy chờ sẵn, lần lượt “hốt từng con”. Một đêm “trúng” có khi kiếm cả triệu bạc như chơi…
Săn “cu tý” xuyên quốc gia
“Tháng nào đồng nấy”, kinh nghiệm dân gian đó không ai biết có từ khi nào nhưng chắc chắn nó được đúc kết và lưu truyền bởi mấy tay săn chuột đồng, lâu ngày trở thành “kinh điển”. Tháng Giêng xuống miệt Kiên Giang, đến tháng 4 dong qua Cà Mau, hết tháng 7 trở về Đồng Tháp Mười, Long An, rồi quay lại An Giang vào mùa nước nổi… cho đến khi lũ rút thì chống ghe xuôi dòng qua đồng bạn Campuchia săn bắt tiếp.
Ông Tám Lung (ở xã Bình Long huyện Châu Phú, An Giang), một tay “sát chuột” thượng hạng được đồng môn tôn lên hàng “sư tổ”, cho biết những năm trước đi bẫy chuột đồng phải mang theo lúa hoặc cua đồng để làm mồi nhử, tốn kém nhưng hiệu quả không cao.
Nay đặt bẫy không dùng mồi, chỉ dùng kinh nghiệm, hiệu quả lại cao hơn. Người đi bẫy chuột đồng chỉ nhìn luồng chuột là đoán biết mới hay cũ, ước có bao nhiêu con chạy qua, chạy hướng nào rồi dùng bẫy đặt theo luồng. Tối đến chuột đồng theo lối mòn quen thuộc chạy ngay vào bẫy. Thường bẫy một lần dính một con nhưng đôi khi cũng có “hai – ba em” cùng chung số phận.
Chế biến chuột ở Phù Dật, xã Bình Long, huyện Châu Phú (An Giang).
Cánh săn chuột đồng thường đi theo nhóm 3-4 người, nhiều lúc vui thì đi thành đoàn cả chục người. Mỗi chuyến tùy đồng nhà hay đồng bạn, xa hay gần nhưng thường thì chừng 5-10 ngày họ mới quay về. Hành trang ngoài chiếc ghe có tải trọng chừng 1 tấn, mỗi người mang theo từ 300 đến 1.000 cái bẫy. Bẫy chuột được làm bằng dây kẽm, giá hiện nay khoảng 20.000 đồng/cái.
Đi trong nhóm bao giờ cũng có một phụ nữ, không phải để hát hò cho vui mà để lo cơm nước. Thức ăn mang theo đơn giản là gạo, nước mắm và muối hột. Hạ trại ở đâu, hái rau đồng, bắt cua, cá ở đó ăn, nhiều hôm bị “rượu vật” thì cả nhóm ăn cơm với thịt chuột.
Anh Quý (ở xóm chuột Phù Dật, xã Bình Long, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang) nhiều năm nay là thành phần không thể thiếu trong đội quân bẫy chuột đồng ở đây. Trong một lần theo anh đi bẫy chuột đồng ở huyện Thoại Sơn, chúng tôi mới biết thế nào là một tay “sát chuột” thượng hạng. Sau gần một ngày dong thuyền, xế chiều thì nhóm dừng lại bên cánh đồng heo hút lúa vừa cong trái me. Lập tức họ nhảy lên bờ chia nhau đi tìm luồng đặt bẫy.
Gần 3 giờ đồng hồ lên bờ xuống ruộng, chiếc bẫy cuối cùng cũng tìm được nơi ưng ý. Kẻ trước người sau lần lượt quay về trại thì trời nhá nhem tối. Bữa cơm đã dọn sẵn trên manh chiếu, cánh đàn ông sà vào lai rai “tán gẫu” chờ đến giờ thăm bẫy. Mọi người dường như đã được lập trình sẵn, đến “giờ Tý canh ba” từng người đứng lên xách đèn ra đi trong sương lạnh.
Tờ mờ sáng, họ lại đi gom các bẫy trở về. Đây cũng là thời điểm các lái chuột đến chờ sẵn ở trước “doanh trại” để gom hàng về sang lại cho các vựa chuột ở Phù Dật. Vựa chuột Phù Dật có từ thế kỷ 20, bước sang thế kỷ 21 nó trở thành “trung tâm” mua bán chuột của Đồng bằng sông Cửu Long.
Lần lượt từng chiếc lồng lưới đầy nhóc chuột đồng được đưa lên cân giao cho thương lái. Chuột cỡ 7-8 con/kg có giá 40.000 đồng; chuột nhỏ hơn giá mỗi kg thấp hơn khoảng 10.000 đồng, tùy theo ngày chuột về nhiều hay ít. Cứ thế “cóc xỉa” tại chỗ ngon ơ.
Video đang HOT
Đi bẫy chuột cũng hên xui, có chuyến trúng kiếm 4-5 triệu như chơi, thất bát cũng có 1-2 triệu. Nên khi về, họ ăn xài không thua ngư dân tàu cá. Hết tiền, phóng xuống ghe hoặc ra đồng bắt chuột, với họ “tiền để ở ngoài đồng” lo gì sợ thiếu.
Chuột mới về vựa ở Phù Dật
Dòng đời cứ quẩn quanh mới biết có nhiều người như ông Lắm, ông Rạng, ông Bằng ở Châu Phú đã sống với nghề săn chuột đồng gần hết đời mà nghèo vẫn hoàn nghèo. Cũng không ít người đi bẫy chuột không may bị rắn cắn, kẻ gian lấy đồ nghề, tiền bạc… thừa sống thiếu chết vậy mà vẫn không bỏ nghề.
Lớn lên nhờ chuột đồng
Vừa đến đầu xóm Phù Dật, chúng tôi gặp ngay một nhóm trẻ chừng 14-15 tuổi, ăn vận tựa “áo vũ cơ hàn”, khệ nệ khiêng từng chiếc lồng chuột từ dưới ghe lên bờ, mùi hôi của những chiếc lồng trộn lẫn mùi tanh của phụ phẩm từ nơi chế biến lan tỏa khiến ai không quen dễ lợm giọng.
Nhưng đó là cái mùi đặc trưng của xóm chuyên săn bắt, mua bán chuột đồng “độc nhất” ở miền Tây nằm bên bờ kênh Phù Dật, cạnh quốc lộ 91 chạy từ hướng TP Long Xuyên lên Châu Đốc.
Xóm chuột Phù Dật có từ bao giờ? Một ông lão trong làng nói cha tôi ngày trước cũng làm nghề chuột, đến tôi, con tôi rồi cháu tôi cũng lớn lên nhờ chuột. Mà hầu như nhiều gia đình trong xóm này cũng vậy, có nhà tường, xe máy cũng nhờ chuột hết. Ông tính sơ sơ ở đây có khoảng 7 vựa chuột lớn, trên 20 vựa chuột nhỏ. Những hộ còn lại đa số đi làm chuột mướn cho vựa hoặc đi bẫy, lái chuột.
Chuột sau khi “chạy” về đây được biến thành “chuột ướp lạnh”, “chạy” tiếp đến các nhà hàng chợ Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ, Cao Lãnh, Vĩnh Long, TP Hồ Chí Minh… ổn định từ 70-80 ngàn đồng/kg. Để “chuột ướp lạnh” “chạy” được phải qua ít nhất 7 công đoạn chế biến, ướp muối với nước đá xong chở đi giao liền.
Bình quân mỗi ngày ở những vựa chuột lớn sử dụng khoảng 20 lao động, vựa nhỏ 5-7 lao động. Công việc được bắt đầu từ lúc 2 giờ chiều và thường kết thúc trước 7 giờ tối. Một chủ vựa chuột cho biết, xóm chuột Phù Dật có chưa tới 1.000 hộ dân, hầu hết sống bằng nghề chuột nên đa số còn nghèo, nhiều năm qua xã cho vay vốn xóa đói giảm nghèo để phát triển nghề chuột nên mấy năm gần đây một số gia đình cũng thoát nghèo, có người xây được nhà tường, sắm xe máy, xe tải, xuồng ghe…
Tuyệt chiêu “ trinh nữ kén chồng”
Mấy năm trước con gà bị cúm, nay đến lượt con heo có nguy cơ cao lây dịch tả châu Phi. Gà, heo thay nhau “chạy” xuống hố thì con chuột lại càng có cơ hội “chạy” lên bàn ăn. Món chuột đồng quê dân dã ngày trước giờ trở thành đặc sản của người thành thị. Trong thực đơn của nhiều bà nội trợ ở Đồng bằng sông Cửu Long gần đây có thêm món chuột đồng. Chuột đồng bây giờ không chỉ 7 món, nó có hơn 10 món rồi.
Một bà chủ vựa chuột tỏ ra phấn khởi, nói trước kia ăn chuột khìa nước dừa (quay chảo) nó ngon ngọt đậm đà, thịt thơm lừng nhưng xưa rồi, nay khìa với nước ngọt (loại nước đóng chai, có gas) nó đằm thắm hơn. Còn chuột luộc cơm mẻ sao bằng hấp giấm nó vừa thơm vừa ngọt. Nhưng món “độc địa” ở đây là chuột hấp cơm. Nhiều người mới nghe qua món này đã bỏ chạy vì nó trắng nhách thấy ghê ghê nhưng người sành ăn thịt chuột cho rằng thử qua một lần là ghiền ngay.
Thịt chuột được sơ chế.
Trước tiên lựa con chuột có nhiều mỡ làm sạch, không ướp gia vị. Chờ nồi cơm ráo nước để sắp con chuột vào. Chín cơm, chín chuột. Dọn ra ngay với cơm nóng, rau răm và muối tiêu chanh. Mùi thịt chuột bốc lên thơm phức, phải ăn thật chậm mới cảm nhận được nó mềm, ngon ngọt và béo đến mức nào. Ăn tới khi no bụng vẫn còn thèm.
Ở trong vùng còn có món chuột kho rệu, để dành ăn trong 3 ngày tết hoặc những lúc bận việc đồng áng thật độc đáo vô cùng. Lựa những con chuột mập ú làm sạch, đem chiên vàng sơ qua sau đó kho với nước dừa có thêm vài lát thịt heo đi cùng thì ngon phải biết. Mỗi sáng thức dậy ăn vội với bánh mì ôi thôi quên cả việc ra đồng.
Tuyệt hơn, ở vùng núi Cấm, huyện Tri Tôn (An Giang) còn có thêm món “trinh nữ kén chồng”. Người ta chọn những con chuột cái “còn trinh” – tức chuột còn tơ, làm sạch, ướp gia vị rồi dùng thịt heo ba chỉ với gan heo, nấm mèo băm lẫn cùng đậu xanh nguyên hạt, cho vào bụng “trinh nữ” may lại. Để nguyên con chiên vừa vàng tới, sang qua nồi đất, đổ nước dừa vào đun cho tới khi nước dừa keo lại.
“Trinh nữ kén chồng” thơm mùi mẫn và để thưởng thức trọn vẹn hương vị quyến rũ trinh nguyên của nó mỗi người một con đưa lên miệng cắn nhanh, nhai chậm với rau răm hoặc giả thử làm “đồ đệ” của Lưu Linh thì không thứ chi sướng bằng.
Ngoài ra còn có hàng loạt món mà mới nghe nhắc qua đã muốn chạy ra đồng bắt chuột, nào là chuột nấu canh chua với rau nhút cơm mẻ, chuột xào lá cách, chuột xào rau răm với đậu phộng, chuột xé phay, chuột giả cầy, chuột làm bánh xèo, chuột nướng chao… Trong các nhà hàng ở Đồng bằng sông Cửu Long còn có món chuột quay lu, chuột nướng mọi, chuột chiên sả ớt… Trước đây còn có khô chuột, mắm chuột nhưng gần đây do hiếm hàng nên khách về đồng bằng tìm mua hai món này hơi khó.
Những năm cúm gia cầm, người ta nơm nớp lo sợ, xóm chuột miễn nhiễm, vẫn hoạt động ì xèo không một ngày ngưng nghỉ. Chính quyền địa phương tỏ ra quan ngại, lệnh cấm kinh doanh, săn bắt chuột được ban hành, nào ngờ gặp phải sự phản ứng dữ dội từ cánh thợ săn. Năm ấy lại là năm chuột về đông quá, nông dân mất mùa.
Theo Kỳ Phương (Báo ANTG/CAND)
Làng nuôi loài thú biết bay-"ngồi mát ăn bát vàng" ở An Giang
Một xóm nhỏ ven sông Hậu thuộc xã Bình Long (huyện Châu Phú, tỉnh An Giang) từ lâu nổi tiếng với nghề dụ dơi về lấy phân bán. Những vị cao niên ở đây cũng không nhớ họ làm nghề này bao lâu, nhưng nhờ nó mà gần chục gia đình có cuộc sống đủ đầy. Và cái tên "Xóm dơi" cũng bắt nguồn từ đó.
Mót của trời
Nhiều năm qua, những ai đi qua Quốc lộ 91 (đoạn xã Bình Long, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang) thường thấy nhiều bảng treo "bán phân dơi" nhưng không biết nguồn phân từ đâu, bởi ven đoạn quốc lộ này không thấy có chuồng nuôi dơi nào. Còn với những cư dân ở "Xóm dơi", có lẽ khí hậu ven sông mát mẻ khiến dơi về nhiều để rồi giúp họ có cái nghề hết sức độc đáo: dụ dơi lấy phân.
Ông Huỳnh Ngọc Bá - 89 tuổi- người có thâm niên nhất trong xóm làm nghề dụ dơi lấy phân, kể: "Hơn 70 năm trước, tại cây cầu đầu kênh trong xóm, dơi về bám dưới gầm cầu rất nhiều. Trong khi đó, hầu hết bà con xung quanh làm nghề nông, rất cần phân dơi bón cho cây trồng nên một người trong xóm nảy ra ý định lên Tịnh Biên (An Giang) mua lá thốt nốt về treo thử phía sau nhà dụ dơi....".
Gia đình ông Bá có cuộc sống đủ đầy nhờ nghề dụ dơi về nuôi lấy phân bán. Ảnh: BÌNH NGUYÊN
Theo ông Bá, việc treo lá thốt nốt không ngờ khiến dơi chuyển từ dưới gầm cầu vào trốn trong các lá thốt nốt đông dần. Cứ thế chúng cho phân để lấy bón cho cây. Thời gian sau, một số hộ khác trong xóm cũng làm theo nên lượng phân lấy được quá nhiều, bà con bán lại cho những người xung quanh, dần dà hình thành nên nghề dụ dơi lấy phân tại cái xóm nhỏ này lúc nào không hay".
Ông Bá cho hay, một chuồng dơi thường cao khoảng 6m, rộng 4m. Người thì tận dụng cây cao phía sau nhà che mái, gác cây treo lá thốt nốt để làm chuồng; một số hộ thì chọn cây gỗ loại tốt hoặc làm cột bê tông để dựng khung làm chuồng.
Do đặc tính của dơi thích sống tự do, nhạy cảm với người lạ, loài vật, côn trùng nên nơi làm chuồng phải thoáng mát, yên tĩnh. "Có lẽ vậy nên khi tôi và bà con trong xóm làm chuồng cạnh bờ sông mát mẻ, dơi về trú ngụ rất đông"- ông Bá nói.
Theo bà con tại "Xóm dơi", để loài dơi chịu ở trong "nhà" do con người dựng lên, người làm nghề cần có những bí quyết riêng. Chẳng hạn, lá thốt nốt dùng để buộc trên trần của chuồng làm chỗ trú ngụ cho dơi, khi chặt về phải ngâm qua nước trước khi phơi nhằm diệt sạch ấu trùng kiến - "kẻ thù" của loài dơi.
Theo ông Bá, chi phí đầu tư một chuồng khoảng vài triệu đồng gồm cây, lá và tôn lợp phía trên. Lá thốt nốt thì treo 1 năm phải bỏ, tìm lá mới về thay.
Nói về kinh nghiệm nuôi dơi lấy phân, ông Bá cho biết, chuồng phải cao ráo, thoáng mát về mùa hè, ấm về mùa đông và luôn sạch sẽ, thường xuyên dọn chuồng, thay lá và giũ phân dơi còn sót lại. Để dơi không bị động ổ, phải sử dụng xen kẽ lá cũ và lá mới để dơi không cảm thấy lạ chỗ.
Đủ đầy nhờ nuôi dơi
Không tốn nhiều công sức, chi phí ban đầu bỏ ra ít nên dụ dơi về lấy phân bán được xem là nghề "ngồi mát ăn bát vàng". Hiện nay, nguồn phân dơi trên thị trường khá khan hiếm, đặc biệt nhiều nhà vườn hay trại cây giống rất ưa dùng phân bón hữu cơ vì tính an toàn cao, lại giàu dinh dưỡng, có thể giúp cây trồng phát triển mạnh, có sức sống tốt thì phân dơi là lựa chọn hàng đầu. Chính những yếu tố đó đã giúp gần chục hộ tại "Xóm dơi" có cuộc sống đủ đầy như hôm nay.
"Hiện, gia đình tôi có 2 chuồng, mỗi ngày lấy 5 - 6kg phân bán với giá 60.000 đồng/kg. Tới đây, đến mùa mưa, muỗi nhiều thì lượng phân lấy được hằng ngày sẽ tiếp tục tăng lên. Trong xóm này, nhiều hộ vẫn canh tác ruộng, vườn nhưng nghề dụ dơi để lấy phân thì không thể bỏ được, bởi nhờ nó mà gia đình tôi và bà con sống khỏe. Như gia đình tôi, nguồn thu từ 2,5ha lúa mỗi vụ xem như để tích lũy" - ông Bá chia sẻ.
Còn ông Đinh Quang Trường, ở cạnh nhà ông Bá, cho biết gia đình ông cũng làm nghề dụ dơi về lấy phân đã lâu. Việc lấy phân và tiêu thụ được bà con tính toán kỹ, nhất là những tháng vào mùa rẫy do nhu cầu phân dơi nhiều trong khi đó lượng phân thu được của các hộ dân vào mùa nắng ít nên hầu hết bà con đều phơi khô, dự trữ chờ thương lái các tỉnh đến thu gom.
"Nhờ thế, giá bán phân dơi thường cao hơn, thu nhập cũng tăng lên. "Mỗi gia đình chỉ cần 1 - 2 chuồng là có thu nhập hơn 200.000 đồng/ngày. Như vậy, nguồn thu từ phân dơi bảo đảm đủ chi xài hằng ngày trong gia đình, còn nguồn thu khác từ lúa, vườn cây ăn trái thì dành dụm" - ông Trường nói.
Ông Bá cho biết để dơi về trú bền lâu, người nuôi cần có kinh nghiệm trong làm chuồng cũng như quá trình theo dõi đàn dơi. Nhà nào cũng nên mua dư lá thốt nốt phơi khô để sẵn, nếu lá nào hơi mục là thay liền, vì lá cũ bị hôi, dơi sẽ bỏ đi.
"Đặc biệt phải có cách để phòng rắn lục. "Thời gian qua, rắn lục sinh sôi nhiều làm bà con lo lắng, do đó cần phải thường xuyên theo dõi xử lý khi có rắn. Những cây gần chuồng cần được dọn dẹp, không để chúng chạm vào chuồng dơi. Chú ý có rắn là xử lý ngay, không để chúng làm kinh động đàn dơi" - ông Bá nói.
Theo Bình Nguyên (Báo Cần Thơ)
Lạ: Dụ dỗ dơi về ở để lấy phân, thu gần nửa triệu đồng/ngày Hiện nay, nhiều người dân ở huyện Châu Phú - An Giang đã xây chuồng để dẫn dụ dơi muỗi về ở, lấy phân bán cho thương lái với giá từ 60.000 - 65.000 đồng/kg (loại phân được phơi khô). Mô hình nuôi dơi lấy phân đang mang lại thu nhập ổn định cho người dân ở An Giang Mức giá này tăng...